hệ phái khất sĩ là gì
Chùa là nơi tập trung sinh hoạt, tu hành và thuyết giảng đạo Phật của các nhà sư, tăng, ni (mang tính chất tập thể) - Chùa mà có khoảng từ 20 vị tăng tu tập trở lên gọi là Tu Viện. - Chùa có hệ phái khất sĩ gọi là Tịnh Xá (ở trong miền Nam).
SỰ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA NI GIỚI HỆ PHÁI KHẤT SĨ Phật giáo Việt Nam được du nhập từ Ấn Độ và Trung Quốc và là tôn giáo có ảnh hưởng sâu rộng nhất ở nuớc ta. Trên đường truyền bá và hội nhập, Phật giáo luôn luôn thực hiện tính khế lý và khế cơ, 1 2 3 4 5 Nổi bật Phật pháp Mới nhất Từ Thiện Ý NGHĨA HẠNH TU KHẤT THỰC HÓA DUYÊN
Thế nên nếu các tu sĩ lên đường đi khất thực vào bốn giờ sáng, thì phải tận đến chiều tối họ mới trở về đến và do đó không thể tu tập và học hỏi gì được nữa. Rinpoche: Theo truyền thống Phật giáo, bất cứ gì có sự sống là có cảm giác. Thế nên chẳng
Vay Tiền Trả Góp Theo Tháng Chỉ Cần Cmnd Hỗ Trợ Nợ Xấu. Nhờ chủ trương sử dụng nghi thức tụng niệm thuần Việt với thể loại thơ ca Việt Nam, Hệ phái Khất sĩ đã phát triển nhanh trong cộng đồng Nam bộ. Tuy nhiên, nghi thức tụng niệm của Tăng giới và Ni giới của Hệ phái Khất sĩ vẫn chưa thống nhất, với nhiều dị biệt. Điều này phần nào làm giảm đi sức mạnh thống nhất nội bộ của Hệ phái Khất sĩ. Tôi cho rằng một khi Tăng Ni và Phật tử Hệ phái Khất sĩ đều sử dụng thống nhất một NTTN, sức mạnh nội tại của Hệ phái sẽ mạnh hơn, thuyết phục hơn và nhập thế hiệu quả hơn. “NGHI THỨC TỤNG NIỆM” CỦA HỆ PHÁI KHẤT SĨ TẠI VIỆT NAM Thích Nhật Từ Phó Viện trưởng – Tổng thư ký Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam I. DẪN NHẬP Phạm vi nghiên cứu của bài này là “Nghi thức tụng niệm” viết tắt là NTTN của Hệ phái Khất sĩ Tăng trong sự so sánh với các nghi thức tụng niệm của Phật giáo Bắc tông. Bài viết chủ yếu khái quát về các nghi thức thông dụng trong Hệ phái Khất sĩ, những điểm tương đồng và dị biệt giữa NTKS với các NTTN thuộc các hệ phái Phật giáo Bắc tông khác. Sau đây là các khái niệm được mặc định trong bài viết này i Nghi thức tụng niệm viết tắt là NTTN chỉ chung cho các nghi thức thuộc bất kỳ hệ phái Phật giáo nào. Tùy theo từng ngữ cảnh, khái niệm này có thể chỉ cho nghi thức của Bắc tông, hoặc của Khất sĩ, hoặc của Nguyên thủy. ii Nghi thức Khất sĩ viết tắt là NTKS chỉ cho NTTN của Tăng giới Hệ phái Khất sĩ và ở vài ngữ cảnh khác, chỉ chung cho các nghi thức tụng niệm của hệ phái Khất sĩ, bao gồm quyển Kinh Tam bảo và Kinh xưng tụng Tam bảo do NT Huỳnh Liên soạn, được Ni giới Hệ phái Khất sĩ sử dụng tại các Tịnh xá dành cho Ni giới, iii Nghi thức Bắc tông viết tắt là NTBT chỉ chung cho các NTTN được sử dụng trong các hệ phái và tự viện thuộc Phật giáo Bắc tông của Việt Nam trong nước và nước ngoài. iv Nghi thức Nguyên thủy viết tắt là NTNT chỉ chung cho các nghi thức tụng niệm của Phật giáo Nguyên thủy Theravada bao gồm các nghi thức đầu tiên do Hòa thượng Hộ Tông soạn dịch cho đến các nghi thức mới tại Việt Nam và hải ngoại trong hai thập niên trở lại đây. II. CẤU TRÚC CỦA NGHI THỨC KHẤT SĨ Có thể chia NTKS thành bốn nhóm chính i Nghi thức sám hối,[1] ii Nghi thức cầu an,[2] iii Nghi thức cầu siêu,[3] iv Các nghi thức khác bao gồm a Nghi thức cúng dường,[4] b Kinh cúng cửu huyền,[5] c Nghi thức thọ trì,[6] và d Các kệ tụng.[7] Các Nghi thức sám hối, Nghi thức cầu an và Nghi thức cầu siêu có cấu trúc giống nhau gồm a Phần dẫn nhập, b Phần chính kinh, c Phần hồi hướng.[8] Trong nhóm “Các nghi thức khác” đơn giản nhất là “Kệ tụng” chỉ gồm 14 kệ, phần lớn theo thể song thất lục bát; riêng kệ 2[9] theo thể ngủ ngôn, các kệ 13 và kệ 14 theo thể lục bát; kệ 12 phần đầu theo thể lục bát, phần sau là bốn kệ theo thể thất ngôn tứ tuyệt và bài 6[10] là văn xuôi. 1 Phần dẫn nhập Về thể loại, phần dẫn nhập của NTKS gồm các bài thơ, mỗi bài gồm 4 câu, có khi là thất ngôn đường luật và có khi là song thất lục bát. Về trật tự, các bài kệ trên được sắp xếp theo thứ tự i “Dâng hương” [11] bằng thể thất ngôn đường luật, ii “Lễ Phật,”[12] iii Lễ Pháp,”[13] iv “Lễ Tăng”[14] cả ba đều bằng thể song thất lục bát, v “Kỉnh nguyện,”[15] bằng văn xuôi, vốn tương đương phần Nguyện hương trong các NTBT, vi Khai kinh kệ, bằng thể thất ngôn đường luật, vốn diễn thơ từ bài chữ Hán trong các NTBT.[16] 2 Phần chính kinh NTKS chỉ có vỏn vẹn 6 bài chính kinh. Trong NTKS, “Nghi thức sám hối” có chính kinh là Hồng danh bửu sám,[17] “Nghi thức cầu an” có chính kinh là “Kinh Phổ Môn”[18] và “Nghi thức cầu siêu” có ba chính kinh là “Kinh Vu-lan-bồn,[19] Kinh báo hiếu phụ mẫu trọng ân,[20] Kinh A-di-đà[21] và Kinh Vô ngã tướng.”[22] Trong “Nghi thức cúng dường” và “Kinh cúng cửu huyền”, bài chính kinh được thay bằng “bài kệ chính của nghi thức”, chẳng hạn, trong “Nghi thức cúng dường” thì có bài “Cúng dường Tam bảo,”[23] và trong “Kinh cúng cửu huyền thất tổ,” thì có bài “Cúng cửu huyền thất tổ.”[24] 3 Phần hồi hướng Trong NTKS, phần Hồi hướng thường ngắn gọn hơn các NTBT. Phần Hồi hướng trong Nghi thức cầu an gồm có Bát-nhã Tâm kinh, Thập nguyện, Hồi hướng và Tam quy;[25] Lời nguyện cuối Phục nguyện trong NTBT được thay thế bằng bài “Lời khuyên nhắc.”[26] Phần Hồi hướng trong Nghi thức cầu siêu gồm có Bát-nhã Tâm kinh, Nguyện vãng sanh, Tán thán Phật, Sám thập phương, Thập nguyện, Hồi hướng và Tam quy; không có phục nguyện. Trong Nghi thức sám hối, phần hồi hướng là bài “Hồi hướng”[27] gồm 12 câu, diễn thơ từ bài nguyên tác chữ Hán. Trong Nghi thức thọ trì thì có các bài kệ “Xưng tụng Phật bảo, xưng tụng Pháp bảo, xưng tụng Tăng bảo, quy y Tam bảo và thọ trì ngũ giới.”[28] Nhìn chung, ngoài Nghi thức cầu siêu ra, các Nghi thức cầu an và Nghi thức sám hối trong NTKS, có phần Hồi hướng gần giống với các NTBT, dĩ nhiên là ngắn gọn hơn. III. NHỮNG TƯƠNG ĐỒNG GIỮA NTKS VỚI CÁC NTBT 1 Sử dụng cùng kinh văn và bản dịch Ba Nghi thức căn bản trong Phật giáo Bắc tông được NTKS sử dụng cộng thông bao gồm Nghi thức sám hối, Nghi thức cầu an và Nghi thức cầu siêu. Phần chính kinh của ba nghi thức nêu trên sử dụng lại bản dịch của NTBT, chẳng hạn, Hồng danh bửu sám,[29] sử dụng bản dịch tiếng Việt quen thuộc, các chính kinh còn lại đều sử dụng bản dịch của HT. Thích Huệ Đăng, bao gồm Phẩm Phổ Môn Kinh Diệu pháp liên hoa,[30] Kinh Vu-lan-bồn,[31] Kinh báo hiếu phụ mẫu trọng ân,[32] Kinh A-di-đà.[33]Riêng Kinh Vô ngã tướng[34]sử dụng cộng thông với NTNT,[35] Nghi thức tụng niệm đại toàn,[36] cũng giống như Kinh Phật cho người tại gia,[37] Kinh Phật cho người mới bắt đầu[38] và Nghi thức tụng niệm.[39] 2 Tương đồng về phần Dẫn nhập và Hồi hướng Các yếu tố cộng thông khác được tìm thấy trong NTKS là sử dụng lại bản dịch Việt của các NTBT bao gồm i Bài “Dâng hương”[40] là bài kệ bốn câu, ba câu đầu giữ nguyên Hán Việt, câu cuối dịch ra tiếng Việt.[41] ii Sử dụng lại bài dịch của các NTBT[42] gồm có bài “Khai Kinh kệ,”[43] bài “Sám nguyện,”[44] và bài “Sám cầu siêu.”[45] iv Trong phần Hồi hướng, các mục sau đây sử dụng cộng thông với các NTBT, bao gồm Bát-nhã Tâm kinh,[46] Tán thán Phật,[47] Sám thập phương,[48] Thập nguyện,[49] Hồi hướng,[50] và Tự quy y.[51] IV. NHỮNG DỊ BIỆT GIỮA NTKS VỚI CÁC NTBT 1 Những đóng góp mới Trong NTKS, các đóng góp mới có thể được chia làm ba loại các nghi thức mới, các kệ sám mới và các kệ sám trong phần dẫn nhập và hồi hướng được dùng trong các nghi thức thuộc NTKS. i Các Nghi thức mới bao gồm a Nghi thức cúng dường[52] trong Trai hội tại gia hoặc Tịnh xá, b Nghi cúng cửu huyền,[53] c Nghi thức thọ trì tại Tịnh xá hoặc tư gia mỗi đêm.[54] ii Các bài kệ sám mới bao gồm 13 bài trong phần Kệ tụng[55] như Kệ an vị Phật, Kệ phóng sinh, Kệ thí phát, Kệ thỉnh pháp sư, Kệ cúng dâng Tịnh xá, Kệ cúng dâng Y bát, Kệ nhớ ơn Phật, Kệ cầu nguyện hòa bình, Kệ thuyền trí tuệ, Kệ chúc mừng chánh pháp, Kệ tán tụng công đức giáo chủ, Kệ nguyện về cõi Phật, Kệ khuyên đừng giết thú.[56] iii Các bài kệ trong phần dẫn nhập bao gồm Kệ dâng hương,[57] Kệ lễ Phật, lễ Pháp, lễ Tăng,[58] Hồi hướng chung,[59] Kệ xưng tụng Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo,[60] Kệ quy y Tam bảo và thọ trì ngũ giới,[61] Kệ pháp quy giới, pháp tịnh tâm,[62] Kệ sám hối Tam bảo,[63] Kệ sám hối tam nghiệp,[64] Kệ sám hối,[65] Kệ cầu nguyện chung,[66] Kệ cầu an,[67] Kệ cầu nguyện,[68] Kệ phổ nguyện,[69] Kệ cầu phước, cầu lộc,[70] Kệ cầu thọ,[71] Kệ thái bình,[72] Kệ cầu siêu,[73] Kệ giác linh tống táng,[74] và Sám từ bi.[75] 2 Về số lượng nghi thức Số lượng các nghi thức trong NTKS ít hơn so với Nghi thức tụng niệm của Phật giáo Bắc tông. Các nghi thức chính trong NTKS bao gồm Nghi thức cúng dường, Nghi cúng cửu huyền, Nghi thức cầu an, Nghi thức cầu siêu, Nghi thức sám hối. Nghi thức tụng niệm[76] trong các Chùa Bắc tông thông thường bao gồm 13 nghi thức sau đây Nghi thức Công phu khuya, Nghi thức Cúng ngọ, Nghi thức Công phu chiều, Nghi thức cầu an, Nghi thức cầu siêu, Nghi thức sám hối, Nghi thức an vị Phật, Nghi thức phóng sinh, Nghi thức thỉnh chuông, Nghi thức quy y Tam bảo, Nghi thức xuất gia, Nghi thức hôn nhân, Nghi thức Bố-tát 3 Về ngôn ngữ Nếu các NTBT có khuynh hướng sử dụng âm Hán Việt,[77] trong khi các Nghi thức Phật giáo Nguyên thủy sử dụng Pali – Việt[78] thì các nghi thức tụng niệm của Hệ phái Khất sĩ sử dụng tiếng Việt, chủ yếu là thi ca với các thể loại song thất lục bát chiếm đại đa số, lục bát, thất ngôn tứ tuyệt và ngũ ngôn. Nhờ sử dụng thi ca diễn dịch kinh điển và kệ tụng, NTKS dễ nhớ, dễ thuộc và dễ truyền bá.[79] Đây là điểm mạnh của Hệ phái Khất sĩ, nhờ đó, quần chúng Phật tử, nhất là giới bình dân ở miền Nam dễ dàng chấp nhận Hệ phái Khất sĩ hơn. 4 Về thần chú Nghi thức tụng niệm của Hệ phái Khất sĩ Tăng[80] không sử dụng các thần chú của Phật giáo Mật tông trong các nghi thức tụng niệm, bao gồm Chú đại bi, chú vãng sinh và các thần chú khác.[81] Nghi thức mang phong cách này ít lạc dẫn người đọc tụng theo hướng “mầu nhiệm” cầu gì được đó, vốn trái với luật nhân quả được đức Phật giảng dạy. V. VÀI NHẬN XÉT 1 Là một Hệ phái Phật giáo mới tại miền Nam, tồn tại chưa tròn 70 năm,[82] sự phát triển của Hệ phái Khất sĩ là đáng trân trọng Hơn 500 Tịnh xá và 5000 Tăng Ni trên toàn nước Việt Nam. So với Hệ phái Phật giáo Nguyên thủy Việt[83] tồn tại 76 năm 1938-2014 tại miền Nam, Hệ phái Khất sĩ phát triển nhanh hơn, phổ cập đến nhiều thành phần xã hội Việt Nam từ Quảng Trị cho đến Cà Mau. Đây có thể được xem là mô hình truyền đạo có hiệu quả đối với giới quần chúng, đáng được các sơn môn pháp phái khác ở Việt Nam tham khảo và rút kinh nghiệm, để việc nhập thế, làm đạo trong giai đoạn toàn cầu hóa được hiệu quả hơn. 2 Nhờ chủ trương sử dụng nghi thức tụng niệm thuần Việt với thể loại thơ ca Việt Nam, Hệ phái Khất sĩ đã phát triển nhanh trong cộng đồng Nam bộ. Tuy nhiên, nghi thức tụng niệm của Tăng giới và Ni giới của Hệ phái Khất sĩ vẫn chưa thống nhất, với nhiều dị biệt. Điều này phần nào làm giảm đi sức mạnh thống nhất nội bộ của Hệ phái Khất sĩ. Tôi cho rằng một khi Tăng Ni và Phật tử Hệ phái Khất sĩ đều sử dụng thống nhất một NTTN, sức mạnh nội tại của Hệ phái sẽ mạnh hơn, thuyết phục hơn và nhập thế hiệu quả hơn. 3 Trong NTKS chưa có sự phân biệt sự khác nhau giữa khái niệm “Kinh” và “Kệ”. Khuynh hướng đồng hóa khái niệm “Kệ” với “Kinh” xuất hiện trong NTKS, chẳng hạn, Kinh cúng cửu huyền,[84] Kinh cầu an,[85] Kinh cầu nguyện,[86] Kinh phổ nguyện,[87] Kinh cầu phước cầu lộc,[88] Cầu cầu thọ,[89] Kinh cầu siêu,[90] Kinh từ bi,[91] Kinh an vị Phật,[92] và Kinh Phóng sinh.[93] “Kinh” vốn chỉ cho những lời Phật dạy, trong khi “Kệ” là những bài thơ đạo của Tăng sĩ diễn giải về triết lý Phật nói chung, hoặc một khái niệm Phật học nói riêng. Do đó, trong các trường hợp nêu trên, nên đổi chữ “Kinh” thành chữ “Kệ” thì thích hợp hơn, giúp cho người đọc tụng dễ phân biệt đâu là lời Kinh Phật dạy và đâu là thi kệ của người biên soạn nghi thức, hoặc được người biên soạn tuyển chọn, đưa vào. 4 Các chính kinh trong NTKS chỉ gồm 6 bài như Kinh Phổ Môn, Kinh A-di-đà, Kinh Vu-la-bồn, Kinh báo hiếu phụ mẫu trọng ân và Kinh Vô ngã tướng, trong đó 5 bài kinh đầu thiên về Tịnh độ Tông, trong khi bài cuối cùng giới thiệu triết lý vô ngã. Đây là khuynh hướng chung của các NTBT từ trước đến nay, ngoài trừ, Nghi thức Làng Mai đại toàn và các nghi thức do Chùa Giác Ngộ xuất bản. Các bài kinh về triết học, các bài kinh về đạo đức, các kinh về xã hội và các kinh về thiền chưa được giới thiệu trong NTKS. Đây là các Kinh nên được bổ sung nhằm giúp cho giới thọ trì, đọc, tụng có thể hiểu hệ thống và toàn diện lời dạy minh triết của Phật. Sài Gòn, ngày 02 tháng 3 năm 2014 SÁCH THAM KHẢO CHỌN LỌC I. BẢN VĂN SỬ DỤNG Hệ phái Khất sĩ, Nghi thức tụng niệm, NXB Tôn giáo, Hà Nội, 2012. Thích Nữ Huỳnh Liên, Kinh Tam bảo và Kinh xưng tụng Tam bảo ấn bản kỳ 9 do NT Huỳnh Liên soạn, NXB Tôn giáo, Hà Nội, 2008. II. BẢN VĂN THAM KHẢO Hội đồng Giáo thọ Đạo tràng Mai thôn soạn dịch, Nghi thức tụng niệm đại toàn, NXB Lá Bối, Pháp, 1994, 2000. Thích Thiện Thanh soạn dịch, Nghi thức tụng niệm hằng ngày của hai giới xuất gia và tại gia, Chùa Phật Tổ, Hoa Kỳ, 1998. Thích Minh Thời biên tập, Kinh Nhật tụng, NXB Tôn Giáo, 2002. Hộ Tông tỳ khưu soạn dịch, Kinh Nhật Hành của người tại gia tu Phật, NXB Đông Phương, 2006. Hộ Tông tỳ khưu soạn, Kinh tụng, NXB Đông Phương, 2005. Giáo hội Tăng già Nguyên thủy Việt Nam soạn dịch, Nghi thức tụng niệm, Chùa Pháp Luân, Texas, USA, 2003. Tăng Định tỳ khưu hợp soạn, Kinh Nhật Tụng của cư sĩ, NXB. Tôn giáo, 1995, 2009. Viên Minh tỳ khưu, Kinh Nhật Hành - Pali Việt, NXB. Tôn giáo, 2011. Siêu Minh tỳ khưu, Kinh Nhật tụng Phật giáo Nguyên Thủy, NXB Tổng HCM, 2013. Đức Hiền, Tuyển tập Kinh tụng Nam Tông, NXB. Tôn giáo, 2013. Thích Nhật Từ biên tập, Kinh tụng hằng ngày, NXB. Tôn Giáo, 2002 ấn bản thứ nhất 1994. Thích Nhật Từ soạn dịch, Kinh Phật cho người tại gia, NXB. Hồng Đức, 2013. Thích Nhật Từ soạn dịch, Kinh Phật cho người bắt đầu, NXB. Hồng Đức, 2012. Thích Nhật Từ soạn dịch, Nghi thức tụng niệm, NXB. Phương Đông, 2011. [1] NTTN, 17-42. [2] NTTN, 43-75. [3] NTTN, 77-138. [4] NTTN, 3-5. [5] NTTN, 6-8. [6] NTTN, 9-16. [7] NTTN, 148-82. [8] Trong bài này, tôi sử dụng các khái niệm “dẫn nhập, chính kinh và hồi hướng” trong các nghi thức Bắc tông do tôi biên soạn, để mô tả các nội dung tương đương trong Hệ phái Khất sĩ, để độc giả dễ đối chiếu và so sánh. Tham khảo thêm i Thích Nhật Từ biên tập, Kinh tụng hằng ngày, NXB. Tôn Giáo, 2002 ấn bản thứ nhất 1994; ii Thích Nhật Từ soạn dịch, Kinh Phật cho người tại gia, NXB. Hồng Đức, 2013; iii Thích Nhật Từ soạn dịch, Kinh Phật cho người bắt đầu, NXB. Hồng Đức, 2012; iv Thích Nhật Từ soạn dịch, Nghi thức tụng niệm, NXB. Phương Đông, 2011. [9] NTTN, 149. [10] NTTN, 155 Lễ cúng dâng y bát. [11] NTTN, 9, 43, 76 [12] NTTN, 9, 43, 76 [13] NTTN, 9, 43, 76 [14] NTTN, 10, 44, 77 [15] NTTN, 44, 77 [16] Nguyên văn Hán Việt “Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ, ngã kim kiến văn đắc thọ trì, nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.” [17] NTTN, 30-41. [18] NTTN, 55-68. [19] NTTN, 91-99. [20] NTTN, 100-116. [21] NTTN, 117-130. [22] NTTN, 142-147. [23] NTTN, 4. [24] NTTN, 6-8. [25] NTTN, 71-5. [26] NTTN, 75. [27] NTTN, 42. Đang khi trong Nghi thức cúng dường tr. 3 và Nghi thức thọ trì của NTKS bài dâng hương là một sáng tác mới, súc tích và hay “Khói hương xông thấu mấy từng xanh/ Rốt ráo tâm con bổn nguyện lành/ Trên khói hương này xin Phật ngự/ Chứng minh đệ tử tấc lòng thành.” [28] NTTN, 10-13. [29] NTTN, 30-41. [30] NTTN, 55-68. [31] 91-97. [32] 100-116. [33] 117-130. [34] 143-47, do NT Huỳnh Liên diễn thơ từ bản dịch tiếng Việt của HT. Thích Minh Châu. [35] Tham khảo các quyển i Hộ Tông tỳ khưu soạn dịch, Kinh Nhật Hành của người tại gia tu Phật, NXB Đông Phương, 2006; ii Tăng Định tỳ khưu hợp soạn, Kinh Nhật Tụng của cư sĩ, NXB. Tôn giáo, 1995, 2009; iii Tỳ khưu Siêu Minh, Kinh Nhật tụng Phật giáo Nguyên Thủy, NXB Tổng HCM, 2013; iv Giáo hội Tăng già Nguyên thủy Việt Nam soạn dịch, Nghi thức tụng niệm, Chùa Pháp Luân, Texas, USA, 2003. [36] Hội đồng Giáo thọ Đạo tràng Mai thôn soạn dịch, Nghi thức tụng niệm đại toàn, NXB Lá Bối, Pháp, 1994, 2000. [37] Thích Nhật Từ soạn dịch, Kinh Phật cho người tại gia, NXB. Hồng Đức, 2013. [38] Thích Nhật Từ soạn dịch, Kinh Phật cho người bắt đầu, NXB. Hồng Đức, 2012. [39] Thích Nhật Từ soạn dịch, Nghi thức tụng niệm, NXB. Phương Đông, 2011, tr. xx + 390. [40] NTTN, 43, 76. Nguyên văn Hán Việt là “Giới hương, định hương dữ huệ hương/ Giải thoát, giải thoát tri kiến hương/ Quang minh vân đài biến pháp giới/ Cúng dường thập phương Tam bảo tiền.” [41] Bài dâng hương của Nghi thức Khất sĩ “Giới hương, định hương dữ huệ hương/ Giải thoát, giải thoát tri kiến hương/ Quang minh vân đài biến pháp giới/ Cúng dường Tam bảo khắp mười phương.” [42] Hãy tham khảo i Thích Thiện Thanh soạn dịch, Nghi thức tụng niệm hằng ngày của hai giới xuất gia và tại gia, Chùa Phật Tổ, Hoa Kỳ, 1998, và Thích Minh Thời biên tập, Kinh Nhật tụng, NXB Tôn Giáo, 2002. [43] NTTN, 45, 77. [44] NTTN, 86-8. [45] NTTN, 88-90. [46] NTTN, 71-2, 131-2. [47] NTTN, 134-5. [48] NTTN, 135-6. [49] NTTN, 73, 136-7. [50] NTTN, 73-4, 137-8. [51] NTTN, 74-5, 138. [52] NTTN, 3-5. [53] NTTN, 6-8. [54] NTTN, 9-16. [55] NTTN, 148-82. [56] Phần lớn trong NTKS gọi là Kinh, tôi đổi lại Kệ, để phân biệt đây là các bài thi kệ của chư tôn đức Khất sĩ, chứ không phải lời dạy của đức Phật như trong các Kinh. [57] NTTN, 3, 9. [58] NTTN, 3-4, 9-10, 43-4, 76-7. [59] NTTN, 8, 13. [60] NTTN, 10-11. [61] NTTN, 12-3. [62] NTTN, 14-5. [63] NTTN, 17-8. [64] NTTN, 18-23. [65] NTTN, 23-7. [66] NTTN, 28-9. [67] NTTN, 34-6. [68] NTTN, 46-7. [69] NTTN, 47-8. [70] NTTN, 48-9. [71] NTTN, 49-50 [72] NTTN, 51-4. [73] NTTN, 78-9. [74] NTTN, 79-86. [75] NTTN, 139-41. [76] Xem thêm các nghi thức sau đây để thấy sự khác biệt về phân loại, thể loại nghi thức trong các Chùa Bắc tông tại Việt Nam i Thích Thiện Thanh soạn dịch, Nghi thức tụng niệm hằng ngày của hai giới xuất gia và tại gia, Chùa Phật Tổ, Hoa Kỳ, 1998, ii Thích Minh Thời biên tập, Kinh Nhật tụng, NXB Tôn Giáo, 2002, và iii Thích Nhật Từ soạn dịch, Nghi thức tụng niệm, NXB. Phương Đông, 2011. [77] Cụ thể như Thích Minh Thời biên tập, Kinh Nhật tụng, NXB Tôn Giáo, 2002. [78] Cụ thể như i Hộ Tông tỳ khưu soạn dịch, Kinh Nhật Hành của người tại gia tu Phật, NXB Đông Phương, 2006; ii Hộ Tông tỳ khưu soạn, Kinh tụng, NXB Đông Phương, 2005; iii Tăng Định tỳ khưu hợp soạn, Kinh Nhật Tụng của cư sĩ, NXB. Tôn giáo, 1995, 2009; iv Viên Minh, Kinh Nhật Hành - Pali Việt, NXB. Tôn giáo, 2011; v Đức Hiền, Tuyển tập Kinh tụng Nam Tông, NXB. Tôn giáo, 2013, và vi Tỳ khưu Siêu Minh, Kinh Nhật tụng Phật giáo Nguyên Thủy, NXB Tổng HCM, 2013; vii Giáo hội Tăng già Nguyên thủy Việt Nam soạn dịch, Nghi thức tụng niệm, Chùa Pháp Luân, Texas, USA, 2003. [79] Phật giáo Hòa Hảo và Tứ Ân Hiếu nghĩa cũng sử dụng thi ca để chuyển tải triết lý và truyền đạo, rất ăn khách và thành công ở miền Nam Việt Nam. [80] Nghi thức tụng niệm Ni thường gọi là Kinh Tam bảo và Kinh xưng tụng Tam bảo tr. V do NT. Huỳnh Liên biên soạn vẫn sử dụng thần chú đại bi, như phần lớn các nghi thức tụng niệm của các trường phái Phật giáo Bắc tông khác. [81] Hơn 20 quyển nghi thức do tôi biên soạn quan trọng nhất là Kinh tụng hằng ngày, Kinh Phật cho người tại gia, Kinh Phật cho người bắt đầu và Nghi thức tụng niệm không sử dụng các thần chú Mật tông. [82] Năm 2014, lãnh đạo Hệ phái Khất sĩ tưởng niệm 60 năm ngày vắng bóng Tổ sư Minh Đăng Quang, người khai sáng Hệ phái Khất sĩ. Hội thảo này là một phần trong các chương trình tưởng niệm. [83] Khái niệm nhân học này nhằm chỉ cho Hệ phái Theravada của người Việt, vốn phân biệt với Phật giáo Nam tông Khmer của các nhà sư Campuchia tại miền Nam Việt Nam. Theravada Việt vốn tiếp nhận và chịu ảnh hưởng từ Phật giáo Theravada từ Tích Lan, mặc dù trong giai đoạn thành lập Theravada tại Sài Gòn, Hòa thượng Hộ Tông, nguyên là Tăng thống của phái này, chịu ảnh hưởng từ Phật giáo Campuchia. [84] NTTN, 6-8. [85] NTTN, 45-6. [86] NTTN, 46. [87] NTTN, 47-8. [88] NTTN, 48-9. [89] NTTN, 49-50. [90] NTTN, 78-9. [91] NTTN, 139-41, do NT. Huỳnh Liên sáng tác. [92] NTTN, 148-9. [93] NTTN, 149-50.
Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam đã kế thừa truyền thống tốt đẹp của Phật giáo Bắc tông và Nam tông. Ảnh Đạo Phật Khất sĩ là một sáng tạo độc đáo của Việt Nam, xuất phát từ Việt Nam và chỉ riêng ở Việt Nam mới có. Đây là một hệ phái Phật giáo biệt truyền do Tổ sư Minh Đăng Quang khai sáng, mở Đạo vào giữa năm 1944 ở Nam Bộ với tôn chỉ “Y bát chơn truyền; Nối truyền Thích Ca chánh pháp”. Nếu so với nhiều tông phái, hệ phái khác của Phật giáo thì Hệ phái Khất sĩ tính đến nay chỉ mới tồn tại vừa đúng 77 năm 1944 – 2021. Quãng thời gian này ngắn so với trường kỳ lịch sử Phật giáo nói chung và lịch sử Phật giáo Việt Nam nói riêng, nhưng Đạo Phật Khất sĩ lại có một sức sống, sức lan toả ảnh hưởng và sự phát triển có thể nói là nhanh chóng. Lúc mới thành lập, hệ phái này chỉ truyền thừa ở miền Tây Nam Bộ, bấy giờ giáo đoàn du tăng chỉ có khoảng vài mươi người, thì không lâu sau, Đạo Phật Khất sĩ đã lớn mạnh, nhiều đoàn du tăng được thành lập, đã mang y bát chân truyền và đem giáo lý từ bi của đức Từ Phụ đi phổ độ, hoằng hoá ở Sài Gòn – Gia Định và khắp các tỉnh thuộc Tây và Đông Nam Bộ. Từ sau năm 1954 đến trước năm 1975, Đạo Phật Khất sĩ đã được truyền bá rộng rãi đến các tỉnh ở khu vực Trung Bộ từ Huế, Quảng Trị trở vào, rồi đến hôm nay, hệ phái Phật giáo này đã hiện diện trên khắp đất nước Việt Nam. Điều gì đã tạo nên sức hấp dẫn để Hệ phái Phật giáo này phát triển nhanh chóng đến thế? Cái làm nên sức hấp dẫn cùng niềm kính tin tâm linh đối với thế nhân, giúp cho Đạo Phật Khất sĩ phát triển lớn mạnh là nhờ đức Tổ sư khai sáng và các hàng đệ tử kế tục đã biết vận dụng giáo lý Khế cơ, Khế thời, Khế xứ, Khế lý của Đức Thế tôn một cách uyển chuyển vào thực tế đời sống xã hội ở Việt Nam và ở một số nước khác, với sự dung hợp đặc trưng của hai truyền thống Phật giáo đã tồn tại và phát triển lâu đời là Phật giáo Nguyên thuỷ và Phật giáo Đại thừa Phật giáo Nam truyền và Phật giáo Bắc truyền. Từ thực tiễn hoạt động hoằng dương chánh pháp của Đạo Phật Khất sĩ Việt Nam, có thể rút ra một số đặc điểm sự hấp dẫn của hệ phái Phật giáo này như sau Hình ảnh của đoàn du tăng khất thực hoá duyên, sống đời phạm hạnh Đây là yếu tố đầu tiên tạo nên sức hấp dẫn của Hệ phái. Về vật dụng tuỳ thân, Tổ sư Minh Đăng Quang đã chọn hình thức tam y nhất bát. Hình thức pháp phục và bình bát của đoàn du tăng Khất sĩ Việt Nam giống như hình ảnh tăng đoàn đi khất thực hoá duyên thời Đức Phật còn tại thế. Chính Tổ sư đã tự mình phát nguyện thọ giới Tỳ kheo, giữ gìn và thực hành 250 giới cấm theo quy định về giới luật của Phật giáo Bắc truyền theo bộ luật Đàm Vô Đức và lấy pháp hiệu Minh Đăng Quang mà không phải do một vị thầy Nam truyền hay Bắc truyền nào đặt pháp hiệu, dù trước đó, lúc còn trai trẻ, Ngài đã từng xuất gia tu học tại Campuchia. Hình ảnh các vị Khất Sĩ ôm bình bát đi khất thực với dáng hạnh trang nghiêm, nhiếp tâm, nguyện cầu và hoá độ chúng sinh vào mỗi buổi sáng và mỗi ngày chỉ ăn một bữa, tức thọ thực vào giờ ngọ là một đặc trưng của Phật giáo Nguyên thuỷ như lúc Đức Thế tôn còn tại thế Ngài đã quy định trong giới luật mà các vị khất sĩ trong tăng đoàn phải thực hiện. Quy định này hiện nay Phật giáo Nam truyền/Nam tông Theravàda vẫn thực hành. Nhưng khác với Phật giáo Nam truyền ở chỗ là nếu Phật giáo Nguyên thuỷ khi xưa và Phật giáo Nam truyền hôm nay, tín đồ Phật tử dâng cúng thức ăn gì thì độ thức ăn đó, không phân biệt chay mặn, trong khi đó giới luật của Hệ phái Khất sĩ quy định tu sĩ phải ăn chay. Đây là cách tiếp thu giới luật của Phật giáo Bắc truyền. Về nguồn gốc, thuật ngữ Bhikkhu Pali hay Bhiksu Sançrit được phiên âm là Tỳ Kheo, Tỷ kheo, Tỳ khưu, Tỳ khâu, Tỷ khâu… là khái niệm của Bà la môn giáo, dùng để chỉ cho giai đoạn thứ tư tức “du hành kỳ” trong cuộc đời của tu sĩ Bà-la-môn1, trong đó người chủ gia đình rời bỏ đời sống gia đình, sống bằng hạnh khất thực và tìm cầu chân lí giải thoát. Trong Phật giáo, thuật ngữ này dùng để chỉ tăng sĩ Phật giáo, người từ bỏ cuộc sống thế tục, thụ lĩnh giới luật. Đúng ra thuật ngữ Bhikkhu hay Bhiksu nên định danh là Khất sĩ. Gọi là Khất sĩ bởi vì theo quan niệm của Đức Thế tôn, với người xuất gia trên thì khất pháp xin pháp từ Đức Phật để tu thân dưỡng trí, dưới thì đến chỗ nhân gian thế tục để khất thực xin ăn nuôi thân. Cũng cần lưu ý là người hành khất người ăn xin, ăn mày ở thế gian chỉ xin cơm áo nuôi sống bản thân, không xin pháp và không hoá độ ai cả nên không được gọi là Tỳ kheo Khất sĩ. Khi Đức Phật Thích Ca còn tại thế, tăng ni đạo Phật đều sống bằng khất thực hằng ngày. Mục đích của việc khất thực là tạo ra mối liên hệ thân thiết giữa tu sĩ và dân chúng, tạo cơ hội cho tu sĩ hướng dẫn dân chúng Phật tử về mặt đạo đức và tâm linh, còn dân chúng thì có cơ hội cúng dường tu sĩ, tạo được phước đức cho bản thân mình, hay kết duyên lành với việc tu hành. Người xuất gia khi đã thọ Cụ túc giới 250 giới đối với nam, 348 giới đối với nữ thì phải nương theo Tứ y pháp, trong đó có Y theo pháp, nghĩa là Tỳ kheo Khất sĩ phải bỏ nhà cửa gia sản, đi du hóa trong nhân gian, xin ăn nuôi thân, tùy nơi mà giáo hóa, độ kẻ có duyên phúc và độ người chưa tin, giúp họ có niềm tin Phật Thánh và nhân quả. Đó là xin ăn để nuôi thân xác và có dịp để độ người. Còn xin pháp để nuôi huệ mạng, nghĩa là cầu xin pháp Phật, nối liền cái trí tuệ công đức thành tựu của Phật với tâm của mình. Ấy là độ mình. Đủ hai điều kiện này mới được gọi là Tỳ kheo Khất sĩ. Tôn chỉ và chí nguyện của Hệ phái Tôn chỉ và chí nguyện của Hệ phái do đức Tổ sư khai sáng đã nêu ra, theo thiển ý, đây là yếu tố quan trọng thứ hai để tạo nên sức hấp dẫn lớn của Đạo Phật Khất sĩ. Tôn chỉ và chí nguyện này cũng chính là giáo lý căn bản của Hệ phái Đạo Phật Khất sĩ, mà tư tưởng giáo lý này thể hiện trong các bài giảng pháp của đức Tổ sư, sau này có ghi lại đầy đủ trong bộ Chơn lý. Khi mới mở đạo, Tổ sư Minh Đăng Quang đã nêu lên tôn chỉ và chí nguyện “Y bát chơn truyền; Nối truyền Thích Ca chánh pháp”. Tư tưởng này có được là nhờ Tổ sư Minh Đăng Quang sau nhiều năm tu học tại Campuchia và tự nghiên cứu Tam tạng kinh điển của hai hệ phái Nam truyền và Bắc truyền tại Việt Nam, cùng sau này nhờ Thiền quán mà Ngài đã đắc pháp, từ đó Ngài đã chắt lọc các tư tưởng chính yếu trong giáo pháp của hai truyền thống Phật giáo này để nêu lên phương pháp hành trì tu tập của hệ phái. Tôn chỉ và chí nguyện này đã góp phần làm sống lại những hình ảnh đoàn du tăng khất thực và tư tưởng giải thoát của đạo Phật Nguyên thuỷ từ thời đức Phật còn tại thế, sống đời phạm hạnh, cầu giải thoát. Bộ Chơn lý là sự tập hợp những bài thuyết giảng của Ngài đã giảng dạy cho hàng đệ tử với 69 bài giảng chứa đựng nội dung về kinh, luật và luận. Những bài giảng này vừa tóm gọn được tinh hoa của tư tưởng triết lý đạo Phật, rút ra cách nhìn nhận của Ngài về vũ trụ quan, công lý vũ trụ, nhân sinh quan, lại vừa chứa đựng những giáo pháp cao siêu, huyền diệu của Đức Phật. Từ đó, Ngài đề ra những phương pháp tu tập, như du hoá, khất thực, thiền định, trên cơ sở giáo lý Tứ diệu đế, Thập nhị nhân duyên, Tam vô lậu học, Bát chánh đạo… Những bài thuyết giảng của Ngài được giảng bằng một ngôn ngữ giản dị, mộc mạc, rõ ràng, cụ thể, không dùng ẩn ngữ, với phương pháp diễn giải trực tiếp và lập luận rõ ràng vững chắc theo kiểu Tam đoạn luận, phù hợp với tâm lý và tính cách mộc mạc, giản dị của người dân Nam Bộ nói riêng, của người Việt Nam nói chung. Trong những bài pháp của Tổ sư, Ngài đã kế thừa những tư tưởng phá mê khai ngộ, đoạn trừ tà kiến, phủ nhận uy quyền, thế lực của đấng Phạm Thiên, Đế Thích hay bất kỳ vai trò của thần thánh nào, như lời Đức Phật đã dạy. Tư tưởng đó đề cao vai trò của mỗi cá nhân con người. Tất cả mỗi người phải tự mình nỗ lực tu tập, “tự mình thắp đuốc mà đi”, tức mỗi người là ngọn đèn của chính mình, tự mình quyết định sự sống của mình bằng con đường Chánh đạo như lời Đức Phật đã dạy. Chính sự giản dị, mộc mạc trong cách giảng thuyết cho đệ tử, cho tín đồ Phật tử ai nghe cũng hiểu được Phật pháp và thanh tịnh trong phương pháp tu hành, trong sở đắc, nên chỉ trong một thời gian rất ngắn, từ lúc khai lập Hệ phái năm 1944 đến lúc Ngài vắng bóng năm 1954, tức chỉ trong 10 năm, vậy mà Ngài đã để lại cho môn đồ kho tàng tri thức tâm linh cao vời, tạo được gốc rễ truyền đạo vững vàng mà bao thế hệ truyền thừa sau này phải thầm cảm phục, tri ân, tưởng nhớ. Đây là một đặc điểm nổi bật nhất và đáng tôn vinh nhất và cũng là niềm tự hào của cả Hệ phái. Đây cũng chính là cơ sở để sau khi Ngài vắng bóng, các hàng đệ tử kế tục nối truyền. Về phương pháp tu tập Đạo Phật Khất sĩ nêu ra một số chủ trương về phương pháp tu tập như Hành trì tu tập Giới – Định – Tuệ theo Bát chánh đạo; Dung hợp hai pháp môn tu tập Thiền tông và Tịnh độ tông; Thực hành Tứ y pháp; Áp dụng tinh thần Lục hoà của Phật giáo Nguyên thuỷ trong đời sống tăng đoàn. Ngài chủ trương Sống chung, học chung, tu chung, Ngài đã dạy “Nên tập sống chung tu học Cái sống là phải sống chung, Cái biết là phải học chung, Cái linh là phải tu chung” Chơn lý; Chủ trương Tự tứ cả giáo đoàn, tức sau ba tháng an cư kiết hạ, đến ngày Rằm tháng 7 âm lịch hàng năm, tất cả thành viên của giáo đoàn tập trung Tự tứ tại một Tịnh xá nào đó được cả giáo đoàn thống nhất lựa chọn và chỉ định. Điểm đặc biệt là Đạo Phật Khất sĩ lấy Giới – Định – Tuệ làm trung tâm để tu tập thiền định và đã dung hoà tinh hoa tư tưởng giáo lý của Phật giáo Nam truyền và Phật giáo Bắc truyền. Tên gọi nơi trú xứ Nơi trú xứ của hệ phái được gọi là Tịnh xá, chứ không gọi là Chùa, Tự viện, Thiền viện… như Phật giáo Nam truyền hay Bắc truyền đã gọi. Cách định danh này là gọi theo Phật giáo Nguyên thuỷ từ thời Đức Phật còn tại thế. Và hồi bấy giờ, các vị Khất sĩ không ở một nơi nào cố định trong một thời gian dài vài ba tháng. Tiếp thu cách tổ chức này của Phật giáo Nguyên thuỷ, Ngài Tổ sư Minh Đăng Quang đã quy định trong giới luật của Hệ phái là các tu sĩ xuất gia không được ở một nơi trú xứ nào đó quá ba tháng. Trước năm 1975, các giáo đoàn của Hệ phái tuân thủ quy định này một cách nghiêm cẩn, nhưng sau năm 1975 đến nay thì không còn quy định này nữa, bởi phải chấp hành sự quản lý hành chính của Nhà nước. Đây cũng là một cách ứng xử linh hoạt mềm dẻo theo tinh thần khế thời, khế xứ, khế cơ mà Đức Thế tôn từng giảng dạy. Kiến trúc Chánh điện và Bảo Tháp nơi Tịnh xá Đây là nét kiến trúc rất đặc trưng của Hệ phái. Hồi mới mở đạo, Tổ sư khai sáng đã cho thiết kế xây dựng Chánh điện của Tịnh xá theo hình bát giác để biểu trưng cho Bát chánh đạo Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mệnh, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định. Nóc dưới của Chánh điện có 8 mái, nóc trên có 4 mái, đặt búp sen, trên cùng là hình tượng ngọn đuốc, đặt trên búp sen, để biểu trưng cho ngọn đèn trí tuệ soi sáng chân lý. Cách thiết kế nơi không gian thiêng liêng đã cho thấy nét đặc thù của Hệ phái Khất sĩ có khác với Chánh điện của Phật giáo Nam truyền hay Phật giáo Bắc truyền. Tất cả các Tịnh xá của Hệ phái tại Chánh điện chỉ tôn thờ tượng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nơi trung tâm điện thờ. Đây là điểm giống với Phật giáo Nam truyền, bởi Phật giáo Nam truyền Nguyên thuỷ cũng chỉ thờ phụng Phật Thích Ca nơi chánh điện. Ở một nơi không gian thiêng liêng khác, Đạo Phật Khất sĩ còn thờ Bồ tát Quán Thế Âm, Phật Di Lặc. Điểm này Đạo Phật Khất sĩ có khác với Phật giáo Nam truyền và có nét giống với Phật giáo Bắc truyền Đại thừa, dù nơi Chánh điện của Phật giáo Bắc truyền thờ nhiều hơn, bởi các chùa của Phật giáo Bắc truyền bên cạnh thờ Tam thế chư Phật, cỏn thờ nhiều vị Bồ tát khác như Quan Thế Âm, Đại Thế Chí, Văn Thù Sư Lợi, Phổ Hiền, Địa Tạng… Về biểu tượng hoa sen và Ngọn đèn chân lý. Hình ảnh hoa sen rất quen thuộc trong đời sống của người Việt Nam. Từ phẩm chất của hoa sen, sống “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn” Ca dao Việt Nam, đức Tổ sư đã rút ra bài học để giảng dạy cho hàng đệ tử “Đời sống của hoa sen, lá sen, quả sen thật là từ bi và trí huệ, sống trong khoảng không trung bao quát mà không thiếu phần lợi ích cho cả chúng sanh phía dưới. Thế sao chúng ta lại chẳng noi gương theo, tuy cái sống không mùi vị mà được lắm sự thanh cao, ý nghĩa quý báu”2. Hình ảnh Ngọn đèn chân lý còn được gọi là “Đuốc tuệ” hay “Đuốc trí tuệ” là biểu tượng cho “Bó đuốc soi sáng chân lý”. Chân lý là lẽ sự thật của hiện tượng tự nhiên hay thực tại. Theo nhà Phật, có ba chân lý mà người tu theo Phật thường khắc ghi trong tâm trí của mình, nhà Phật gọi đó là “Tam pháp ấn” Chư hành vô thường, Chư pháp vô ngã, Niết bàn tịch tịnh. Người học Phật nếu thông tỏ được các pháp hữu vi đều vô thường, tức không thường trụ tồn tại vĩnh hằng, tất cả đều phải theo quy luật thành trụ hoại diệt, sinh lão bệnh tử; hiểu rõ các sự vật đều chẳng có tự ngã, tất cả do nhân duyên mà sinh ra và cũng do nhân duyên mà tự diệt; thì từ đó mới đạt được cảnh giới tâm tự tại, trống rỗng, lặng lẽ, hư tịch, an tịnh, sống an nhiên tự tại trong cõi trần thế. Đó chính là Niết bàn, là “Phật tại tâm”, là “Bụt làm lòng”. Theo Tổ Sư khai sáng Hệ phái thì tất cả mỗi người phải tự là ngọn đèn của chính mình, tự mình tìm đến chân lý, và sau khi giác ngộ đủ đầy thì mới giáo hoá cho người khác “tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn” như lời Đức Phật đã từng dạy. Nguyễn Công Lý PGS, TS, Ủy viên Hội đồng tư vấn về Tôn giáo, UBTW MTTQ Việt Nam Chú thích 1. Theo Bà-la-môn giáo, cuộc đời của con người nam giới phải trải qua bốn thời kỳ 1. Phạm trí kỳ Từ nhỏ ở với gia đình, khi lớn lên, khoảng 10 tuổi đến khi trưởng thành tìm thầy học đạo, chủ yếu là học kinh văn Veda và Upanishad; 2. Gia cư kỳ Khi học kinh điển; thông suốt, lúc này đã trưởng thành thì về nhà lập gia đình, làm nhiệm vụ gia trưởng, chăm lo cúng tế thầy tư tế, sinh con đẻ cái; 3. Lâm cư kỳ Làm xong nghĩa vụ gia đình, gia tộc, lúc này con cái đã lớn, thì vào rừng tu tập khổ hạnh theo phạm chí; 4. Du hành kỳ Lúc này hành giả đã già, du hoá khất thực, tìm cầu chân lý với phong thái tự tại, thong dong. 2. Tổ sư Minh Đăng Quang, Chơn lý, bài Trên mặt nước, Nxb. Tôn giáo, 2009, trang 491.
Pháp môn khất thực của hệ phái khất ѕĩ tại Nam Bộ trong bối cảnh хã hội đương đại Luận ᴠăn Thạc ѕĩ của học ᴠiên Bùi Trần Ca Dao Phật giáo Khất ѕĩ là một hệ phái Phật giáo mới, do Tổ ѕư Minh Đăng Quang thành lập năm 1944 ᴠới chủ trương dung hợp giữa hai hệ phái Bắc truуền ᴠà Nam truуền. Hình ảnh gắn liền ᴠới hệ phái nàу là du tăng Khất ѕĩ ᴠới bộ у ᴠàng, không mang theo tiền bạc, taу bưng bình bát đi khắp nơi hành Đăng Quang đề ra phương châm “Nối truуền Thích Ca chánh pháp”, do đó ông chủ trương bảo lưu nhiều pháp môn tu tập từ thời nguуên thủу, trong đó có pháp môn khất thực, một pháp môn quan trọng do Đức Phật đề ra ᴠà thực hành, pháp môn nàу được các đệ tử thuộc hai hệ phái Nam tông ᴠà Khất ѕĩ duу trì cho đến ngàу naу. Đâу được хem là pháp môn hàng đầu của hệ phái Khất nhiều tác động khác nhau, pháp môn khất thực hiện naу có nhiều biểu hiện biến đổi ѕo ᴠới truуền thống Phật giáo Khất ѕĩ. Vấn đề dễ thấу nhất là hiện tượng ѕư giả đi khất thực làm nhiều người có thể hiểu lầm ᴠề pháp môn đoàn 1 là giáo đoàn nguуên thủу mà Tổ ѕư Minh Đăng Quang lập ra, các giáo đoàn khác được thành lập ѕau khi Tổ ѕư ᴠắng bóng. Vì thế, giáo đoàn 1 nổi tiếng ᴠới ᴠiệc các ᴠị lãnh đạo giáo đoàn luôn cố gắng giữ nguуên ᴠẹn những tôn chỉ Tổ ѕư Minh Đăng Quang đã đề đang хem Phái khất ѕĩTuу nhiên, ᴠiệc thực hành pháp môn Khất thực trong nội bộ giáo đoàn nàу cũng biến đổi rất nhiều trong ba trường hợp chọn ra, có một tịnh хá ᴠẫn thực hành pháp môn nàу một cách nghiêm ngặt tịnh хá Ngọc Vân, một tịnh хá không còn thực hành tịnh хá Ngọc Tường ᴠà một tịnh хá ᴠẫn còn thực hành nhưng đã biến đổi ít nhiều tịnh хá Ngọc Viên. Ba tịnh хá nói trên đều nằm ở khu ᴠực đô thị nên chịu ảnh hưởng của bối cảnh hội nhập đương thời. Chúng tôi chọn những trường hợp nàу để có cái nhìn ѕo ѕánh, đối chiếu nhằm làm rõ những biến đổi của pháp môn khất thực trong bối cảnh kinh tế - ᴠăn hóa – хã hội hiện naу. Các tin khác Câu trả lời Góp ýRadEditor - HTML WYSIWYG Editor. MS Word-like content editing eхperience thankѕ to a rich ѕet of formatting toolѕ, dropdoᴡnѕ, dialogѕ, ѕуѕtem moduleѕ and built-in componentѕ - toolbar, content area, modeѕ and moduleѕToolbar"ѕ ᴡrapperContent area ᴡrapperRadEditor hidden teхtareaRadEditor"ѕ bottom area Deѕign, Html and Preᴠieᴡ modeѕ, Statiѕticѕ module and reѕiᴢe thêm Những Loại Câу Thần Tài Phong Thủу, Có Nên Để Câу Thần Tài Trong Nhà Haу KhôngIt containѕ RadEditor"ѕ Modeѕ/ᴠieᴡѕ HTML, Deѕign and Preᴠieᴡ, Statiѕticѕ and ReѕiᴢerEditor Mode buttonѕStatiѕticѕ moduleEditor reѕiᴢerRadEditor - pleaѕe enable JaᴠaScript to uѕe the rich teхt Moduleѕ - ѕpecial toolѕ uѕed to proᴠide eхtra information ѕuch aѕ Tag Inѕpector, Real Time HTML Vieᴡer, Tag Propertieѕ and Đại học Khoa học Xã hội & Nhân ᴠăn - Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh
hệ phái khất sĩ là gì