hóa thân thành vũ nương kể lại câu chuyện

Hóa thân thành bị cát vô tri. Để sau đó hóa thành vô địch. Nghề văn sĩ giống y nghề võ sĩ. Muốn nên tài cần phải chịu đòn đau. Những cú vào tim, những cú nhiệm màu. Giúp cho nó đập ra tình ra ý ( 1971) TÔI KHÔNG TIẾC 4.1.1. Đạo giáo được hình thành trong phong trào nông dân khởi nghĩa. Vùng Nam Trung Hoa vào thế kỉ II sau công nguyên. Cơ sở lí luận của nó là ĐẠO GIA - triết thuyết do Lão Tử đề xướng và Trang tử hoàn thiện (học thuyết Lão-Trang). Lão Tử người nước Sở (vùng Bách Chúng ta hãy thử bình tâm đọc lại Phong Thần diễn nghĩa, để lĩnh hội huyền cơ ẩn giấu sau câu chuyện này. Hồi thứ nhất: "Trụ vương tế miễu bà Nữ Oa" kể về lịch sử nhân đức của nhà Thương, trao truyền từ vua Thành Thang tới Trụ vương là đời thứ 28. Vay Tiền Trả Góp Theo Tháng Chỉ Cần Cmnd Hỗ Trợ Nợ Xấu. Cùng THPT Ngô Thì Nhậm tìm hiểu các bài văn mẫu hóa thân thành Tấm kể lại câu chuyện. Tấm Cám là câu chuyện cổ tích không còn xa lạ với chúng ta và đặc biệt xuất hiện trong chương trình ngữ văn lớp 10. Để giúp các em học sinh nắm chắc nội dung truyện Tấm Cám lớp 10, THPT Ngô Thì Nhậm đã biên soạn tài liệu với nội dung Hóa thân thành Tấm kể lại truyện Tấm Cám để giúp các em học sinh có tài liệu Ngữ văn lớp 10 hay hơn. Sau đây, câu chuyện sẽ được kể lại dưới lời kể của Tấm, nhân vật chính trong câu chuyện. Cùng tham khảo bài văn đóng vai Tấm kể lại câu chuyện Tấm Cám. Dàn ý hóa thân thành Tấm kể lại câu chuyệnMẫu dàn ý số 1Mẫu dàn ý số 2Các bài văn mẫu hóa thân thành Tấm kể lại câu chuyệnHóa thân thành Tấm kể lại câu chuyện – Mẫu 1Hóa thân thành Tấm kể lại câu chuyện – Mẫu 2Hóa thân thành Tấm kể lại câu chuyện – Mẫu 3Hóa thân thành Tấm kể lại câu chuyện – Mẫu 4Hóa thân thành Tấm kể lại câu chuyện – Mẫu 5Hóa thân thành Tấm kể lại câu chuyện – Mẫu 6Hóa thân thành Tấm kể lại câu chuyện – Mẫu 7Hóa thân thành Tấm kể lại câu chuyện – Mẫu 8Hóa thân thành Tấm kể lại câu chuyện – Mẫu 9Hóa thân thành Tấm kể lại câu chuyện – Mẫu 10Hóa thân thành Tấm kể lại câu chuyện – Mẫu 11Hóa thân thành Tấm kể lại câu chuyện – Mẫu 12Hóa thân thành Tấm kể lại câu chuyện – Mẫu 13Hóa thân thành Tấm kể lại câu chuyện – Mẫu 14Hóa thân thành Tấm kể lại câu chuyện – Mẫu 15 Mẫu dàn ý số 1 a. Mở bài Giới thiệu sơ qua nội dung cốt truyện Tấm Cám. Sau đó, hóa thân vào nhân vật Tấm, dẫn dắt và kể về câu chuyện đời mình. b. Thân bài – Hóa thân vào nhân vật Tấm kể lại câu chuyện đời mình một cách cụ thể + Thuở nhỏ, ta sớm mồ côi cha mẹ, sống cùng dì ghẻ và đứa em cùng cha khác mẹ là Cám. + Ta bị hai người đó hắt hủi và bắt nạt, phải làm lụng vất vả suốt ngày. – Tấm kể về cuộc đời mình trước khi làm hoàng hậu + Ta bị Cám lừa dối, trút hết giỏ tép bắt được để cướp lấy chiếc yếm đào. Trong lúc buồn khổ, ta đã khóc, được Bụt hiện lên tặng cho con cá bống. Ta yêu quý và xem cá bống như một người bạn, tâm sự những lúc vui buồn. + Mẹ con Cám lừa ta đi chăn trâu ở cánh đồng xa, ở nhà làm thịt cá bống. Ta buồn khóc, Bụt lại hiện lên mách ta chôn xương bống vào bốn chân giường. Ta ngạc nhiên nhưng vẫn làm theo. + Mẹ con Cám không muốn cho ta đi xem hội, họ trộn thóc lẫn gạo bắt ta ở nhà nhặt. Ta uất hận mà khóc, Bụt hiện lên, sai đàn chim sẻ xuống nhặt hộ, nói ta đào bốn chân giường lên có quần áo đẹp, giày và ngựa để đi dự hội. Ta sung sướng vô cùng. + Đến nơi, ta đánh rơi chiếc hài và được hoàng thượng nhặt được, từ đó ta trở thành hoàng hậu. Ta ngỡ ngàng, ngạc nhiên sung sướng, không tin vào sự thực. Mẹ con Cám thì hằn học và vô cùng tức giận. – Tấm kể về cuộc đời sau khi làm hoàng hậu + Ở hoàng cung, ta được hoàng thượng vô cùng yêu thương, sủng ái. + Đến ngày giỗ cha, ta trở về nhà. Bị mẹ con Cám dụ trèo lên cây cau sau đó họ ở dưới chặt gốc làm ta rơi xuống sông, chết một cách tức tưởi. Cám lên thay ta làm hoàng hậu. + Quá uất ức và không cam chịu số phận, ta đã hóa thành chim vàng anh để vừa được ngày ngày hót vui bên chồng, vừa để chứng minh cho mẹ con cám sự tồn tại của linh hồn mình. + Mẹ con Cám độc ác giết chết chim vàng anh, ta lại hóa thành cây xoan đào để ngày ngày được tỏa bóng mát cho chồng, mẹ con Cám độc ác đem chặt cây làm khung cửi. + Không thể chịu đựng được thêm, ta hóa thành con ác trên khung cửi chính thức tuyên chiến với mẹ con Cám. Mẹ con chúng đuổi cùng giết tận, đem đốt khung cửi. + Biết không thể dùng cách này, ta nghĩ ra một kế lâu dài. Thấy chồng mình hay dừng chân uống nước tại quán của một bà lão, ta hóa thành quả thị, ngày ngày bước ra quét dọn, nấu cơm cho bà, mong một ngày được đoàn tụ cùng chồng + Cuối cùng trời không phụ lòng người. Nhà vua đã nhận ra ta qua cánh trầu têm cánh phượng, đón ta trở lại cung. Ta mừng rỡ khôn xiết, tình nghĩa vợ chồng được hàn gắn, những cố gắng, nỗ lực, sự hi sinh, sự đấu tranh kiên cường bao lâu nay của ta đã được đền đáp. – Sự trừng phạt của Tấm đối với mẹ con Cám + Khi ta trở về, mẹ Cám vô cùng bàng hoàng và sợ hãi. Cám thấy ta trở nên xinh đẹp hơn ngỏ ý muốn được trắng đẹp như ta. + Trước lời đề nghị của Cám, ban đầu, ta có ý định cho Tấm dội nước sôi lột da để cho trắng đẹp, sau đó đem làm mắm gửi về cho dì ghẻ ăn. + Tuy nhiên, sau đó ta đã nghĩ lại, dù họ đối xử với ta một cách cay nghiệt, độc ác nhưng dù sao họ cũng đã từng nuôi ta, cho nên ta quyết định cho họ đi đày ra biên ải để trả giá cho lỗi lầm. + Thế nhưng vì quá xấu hổ và hối hận hai mẹ con họ đã tự tử. c. Kết bài – Tấm tự suy nghĩ về cuộc đời mình. – Tấm đưa ra bài học dạy dỗ con cháu Hạnh phúc có ngay ở chốn nhân gian, phải kiên cường, dũng cảm chống lại cái xấu, cái ác giành lấy và giữ lấy hạnh phúc thuộc về mình. Biết sống lương thiện vì ở hiền gặp lành, ác giả ác báo. Mẫu dàn ý số 2 1. Mở bài Giới thiệu câu chuyện bằng lời của nhân vật Tấm tôi sinh ra trong một gia đình bình thường nhưng cuộc đời tôi đã phải trải qua nhiều câu chuyện đau buồn. 2. Thân bài a. Cảnh ngộ Mẹ mất sớm, cha lấy vợ hai đẻ được một người em tên là Cám rồi cũng mất sau đó. Tôi sống cùng dì và em. Hằng ngày tôi phải làm việc vất vả từ sáng đến tối và bị mẹ con họ bắt nạt, ức hiếp nhưng đành cam chịu. b. Câu chuyện con cá bống Một hôm dì treo thưởng ai bắt được nhiều cá bống hơn sẽ được yếm đào, tôi làm việc quần quật nhưng cuối cùng bị Cám lừa lấy hết cá của mình, chỉ để sót lại 1 con cá bống. Tôi đem cá về thả xuống giếng và nuôi nấng nó nhưng cuối cùng bị dì và Cám ở nhà giết thịt lúc tôi đi làm. Tôi đau buồn thì được Bụt hiện ra và mách tôi đi tìm xương cá rồi mang đi chôn, tôi nghe lời làm theo. c. Khi nhà vua mở hội Mẹ co Cám không cho tôi đi xem hội, bắt tôi ở nhà nhặt gạo với thóc ra. Tôi buồn bã, Bụt hiện lên, giúp tôi nhặt và nói tôi đào xương cá bống lên để lấy quần áo đẹp đi dự hội. Trên đường đi do vội vã nên tôi đã đánh rơi chiếc giày, nào ngờ nhà vua nhặt được và lệnh ai đi vừa chiếc giày đó sẽ lấy về làm vợ. Mọi người nô nức thử giày trong đó có cả Cám nhưng chiếc giày ấy chỉ vừa chân tôi và tôi được làm Hoàng hậu. d. Sau khi làm hoàng hậu Tôi có cuộc sống hạnh phúc, sung túc hơn. Một hôm tôi về giỗ cha thì bị Cám lừa trèo cây hái cau sau đó chặt gốc để tôi chết và vào cung thay tôi làm hoàng hậu. May mắn thay, tôi luôn được Bụt giúp đỡ, năm lần bảy lượt bị Cám giết hại, tôi biến thành chim vàng anh, cây xoan, khung cửi và cuối cùng là cây thị rồi ở cùng với bà lão nghèo hằng ngày giúp bà làm việc nhà. Một hôm nhà vua đi qua nhìn thấy miếng trầu nhận ra tôi là người têm nên đã đón tôi về cung. Tại đây tôi đã trừng trị mẹ con Cám thích đáng và trở về cuộc sống hạnh phúc của mình. 3. Kết bài Khái quát lại giá trị của câu chuyện. Các bài văn mẫu hóa thân thành Tấm kể lại câu chuyện Hóa thân thành Tấm kể lại câu chuyện – Mẫu 1 Giờ đây tôi đã được sống yên ổn bên nhà vua. Để được hưởng cuộc sống yên bình, hạnh phúc như hiện tại tôi đã phải nỗ lực chiến đấu không ngừng để chống lại cái xấu, cái ác, mà trực tiếp ở đây là mẹ con Cám. Tôi và Cám vốn là hai chị em cùng cha khác mẹ. Mẹ tôi là chính thất vợ cả còn mẹ Cám chỉ là vợ lẽ. Cha tôi vốn yêu thương mẹ và tôi hơn hết thảy, bởi vậy mẹ con nhà Cám đã đem lòng ghen ghét hai mẹ con tôi. Mẹ tôi mất sớm, bố tôi không lâu sau qua đời, ngày bố qua đời cũng là ngày chấm dứt cuộc sống êm đẹp, hạnh phúc của tôi. Tôi ở cùng dì ghẻ và Cám, đồng thời cũng bắt đầu quãng thời gian cực khổ, bị đày ải cả về thể xác và tinh thần. Từ nhỏ cho tới khi tôi trưởng thành, mọi việc trong gia đình dì ghẻ đều bắt tôi làm hết. Tôi quần quật làm suốt ngày, không có lúc nào ngơi tay, ban ngày thì chăn trâu, gánh nước, thái khoai, băm bèo cho lợn gà ăn, tôi đến sau giờ cơm tối tôi còn phải xay lúa giã gạo. Cứ triền miên như vậy, hết năm này qua năm khác, mà mẹ con Cám không hề giúp tôi lấy một lần. Tôi còn nhớ lần ấy đang quét sân, thì dì ghẻ bỗng gọi tôi và Cám vào và bảo hai chị em đi bắt tép, ai bắt được đầy mang về trước sẽ được thưởng một chiếc yếm đỏ. Nghe vậy tôi vui lắm, đó là chiếc yếm mà tôi hằng ao ước bấy lâu nay, tôi nhanh chóng lấy giỏ chạy ra ngoài đồng, Cám cũng tung tẩy chạy theo phía sau tôi. Tôi nhặt thoăn thoắt, chẳng mấy chốc tép đã đầy giỏ. Tôi định chạy về, thì Cám gọi giật tôi lại và bảo – Chị Tấm ơi, chị Tấm! Đầu chị lấm, chị hụp cho sâu, kẻo về dì mắng. Tin lời Cám, tôi xuống ao, hụp xuống thật sâu cho sạch sẽ. Nhưng nào ngờ khi tôi lên bờ thi cả giỏ tép đã biến mất. Bấy giờ tôi mới biết mình bị lừa. Ấm ức và tức giận nhưng tôi chẳng biết làm sao. Bởi dì ghẻ cũng đã dung túng cho con mình và trao thưởng cho Cám. Tôi ngồi bệt xuống bờ cỏ mà khóc nức nở, khóc cho số phận bất hạnh, khóc cho việc bị đối xử bất công. Đúng lúc ấy tôi thấy trước mắt hiện ra một luồng khói trắng, một ông già râu tóc bạc phơ, cất giọng hiền từ hỏi tôi – Con làm sao lại khóc? Tôi nghẹn ngào kể hết sự tình cho bụt nghe. Nghe xong bụt bảo tôi xem lại trong giỏ còn gì không, thì tôi phát hiện vẫn con một con cá bống. Tôi đem bống về nuôi, từ đó bống trở thành bạn của tôi. Mỗi bữa cơm tôi ăn bớt đi một nửa dành phần cho bống. Bao nhiêu nỗi uất ức, tôi đều đem đến kể cho bống để vơi bớt nỗi lòng. Nhưng chẳng được bao lâu mẹ con Cám lại lừa tôi đi chăn đồng xa để giết chết bống, điều này tôi chỉ biết cho đến khi Bụt hiện lên nói với tôi. Về đến nhà chỉ còn cục máu nổi lên, tôi uất nghẹn, khóc không thành tiếng, tôi thương bống vô cùng, sao mẹ con họ lại đang tâm giết chết một sinh linh nhỏ bé chỉ vì ghét tôi. Nghe lời bụt dặn tôi đem xương bống bỏ vào lọ đem chôn ở bốn chân giường. Thời gian cứ thế trôi qua, cho đến một ngày nhà vua mở hội, tôi cũng như bao cô gái khác hứng khởi chuẩn bị đi hội. Nhưng đúng ngày hôm ấy, dì ghẻ đem gạo trộn với thóc bắt tôi nhặt riêng hai thứ ấy mới được xem hội. Tôi ấm ức vô cùng và hiểu rằng dì ghẻ không muốn tôi đi. Tôi vừa nhặt vừa khóc, bụt hiện lên và giúp đỡ tôi, đàn chim sà xuống nhặt thóc ra thóc, gạo ra gạo. và nghe lời bụt dặn tôi đào bốn chân giường lấy váy áo mới để mặc dự hội. Mọi thứ vừa như in, tôi hạnh phúc lắm. Nhưng chẳng may hôm đi hội ấy tôi đánh rơi chiếc giày, tìm mãi mà không thấy. Trong đám hội hôm ấy còn diễn ra lễ thử giày, tôi cũng chen vai đến thử và thật kì lạ khi đến gần thì chiếc giày kia chính là giày của tôi, đôi chân tôi vừa khít chiếc giày đó, hợp với cái còn lại tạo thành một đôi. Và cũng nhờ vậy tôi trở thành hoàng hậu, cuộc đời tôi bước sang một trang mới. Nhưng cuộc đời tôi vẫn tiếp tục gặp nhiều sóng gió. Không lâu sau đó là ngày giỗ của cha, tôi về nhà làm giỗ. Khi trèo lên cây cau tôi bị dì ghẻ chặt cây, tôi ngã xuống và chết, Cám thay tôi vào cung chung sống với nhà vua. Tôi không chịu khuất phục, bấy lâu nay họ đã đàn áp tôi, tôi bỏ qua, nhưng lần này cướp cả mạng sống tôi nhất quyết không thể bỏ qua. Tôi phải giành lại quyền sống và hạnh phúc của mình. Tôi hóa thành chim vàng anh, bay vào cung vua, trước khi đến cung vua tôi đến chỗ Tấm cảnh cáo Phơi áo chồng tao, phơi lao phơi sào, chớ phơi bờ rào, rách áo chồng tao. Rồi tôi bay đến cung vua, tiếng hót của tôi làm nhà vua mê đắm, vua yêu thương tôi lắm, sai người làm cái lồng vàng để tôi có thể ngày ngày bên cạnh ngài. Nhưng Cám tiếp tục hãm hại giết chết tôi, tôi hóa thành cây xoan đào, nhà vua lại mắc võng ngày ngày nằm dưới bóng cây xanh là tôi. Sự độc của mẹ con Cám quả không có giới hạn, chúng lại chặt xoan đào, làm thành khung cửi, khiến cho vua không được ở bên cạnh tôi. Hôm ấy trong lúc Cám dệt vải tôi liền cảnh cáo Cám Cót ca cót két/ lấy tranh chồng chị/ Chị khoét mắt ra. Nghe thấy vậy, Cảm hoảng sợ vứt tôi đi thật xa. Từ đống cây đó tôi tiếp tục vươn mình thành cây thị, rồi quả thị thơm tho tỏa hương khắp nơi. Một bà lão đi qua đã khấn Thị ơi thị, rụng vào bị bà bà đem bà ngửi, chứ bà không ăn. Tôi rụng xuống và về ở cùng bà lão nghèo lương thiện. Ngày ngày, bà lão đi làm tôi ở nhà quét dọn, không lâu sau bà phát hiện ra bí mật và xé vỏ quả thị, tôi sống với bà như hai mẹ con. Một hôm, tôi đang ở trong nhà thấy mẹ vào gọi ra có người gặp. Tôi ra và mừng rỡ khi biết đó là nhà vua, chàng đã nhận ra tôi qua những miếng trầu têm cánh phượng. Tôi từ biệt bà lão và về hoàng cung chung sống với nhà vua. Về mẹ con nhà Cám đã bị tôi trừng trị thích đáng. Vậy là trải qua bao nhiêu khó khăn, tôi cũng đã được hưởng hạnh phúc mà tôi vốn được hưởng. Cuộc đời này luôn rất công bằng, khi làm điều thiện, sống lương thiện chắc chắn bạn sẽ gặp may mắn hạnh phúc. Còn làm điều ác tất sẽ gặp quả báo. Hóa thân thành Tấm kể lại câu chuyện – Mẫu 2 Tôi tên là Tấm – là hoàng hậu của một nước. Hiện tại, tôi có một cuộc sống vô cùng viên mãn bên nhà vua và các con của mình. Thế nhưng, ít ai biết được để có ngày hôm nay, tôi đã phải trải qua biết bao chông gai, đau đớn. Tôi sẽ kể lại cho các bạn nghe câu chuyện về cuộc đời của mình. Khi tôi còn rất nhỏ, mẹ tôi mất sớm. Cha tôi đi bước nữa và sinh ra Cám, em gái cùng cha khác mẹ với tôi. Dì ghẻ có vẻ không ưa gì tôi, nhưng vì dì còn kiêng dè cha nên cuộc sống của tôi trôi qua vẫn khá êm đềm. Chẳng bao lâu sau, cha tôi qua đời. Từ khi cha tôi mất, dì ghẻ ghét tôi ra mặt. Tất cả việc nặng nhọc trong nhà từ chăn trâu, cắt cỏ đến xay lúa, giã gạo, dì đều bắt tôi làm hết. Còn Cám, em gái tôi thì được nuông chiều, chẳng bao giờ động tay vào bất cứ việc gì. Tôi đã làm việc ngày đêm, có khi kiệt sức nhưng không dám oán than hay tị nạnh nửa lời. Vào một hôm, người dì ghẻ độc ác đấy bảo tôi và Cám đi xúc tép, ai xúc được nhiều hơn sẽ được yếm đào. Vốn dĩ từ nhỏ chưa bao giờ tôi được vận trong mình chiếc yếm đào nào mới cả, hôm nay dì lại có dự định như thế khiến tôi cũng háo hức không kém. Ra đồng mò cua bắt ốc từ khi tờ mờ sáng, tôi chỉ thấy Cám lâu lâu chỉ chạy theo hái hoa bắt bướm không biết Cám có bắt được nhiều không nhưng nghĩ tới cái yếm đào tôi lại vội chăm chỉ tiếp tục công việc của mình. Tới lúc sắp về thì thấy Cám bảo đầu lấm, tôi cũng tin rồi xuống gội đầu, chải chuốt rồi về. Nhưng ai ngờ, Cám lại nhẫn tâm hại tôi, trút hết tép trong giỏ rồi về lấy yếm đào. Tôi hoảng hốt, bao nhiêu công sức thế lại để người khác giành giật tôi chỉ biết khóc. Sau đó, Bụt xuất hiện từ lúc nào, ông chỉ tay vào giỏ và bảo xem có con cá nào không, mang về nuôi. Tôi bèn làm theo lời, trở về mang theo cá bống thả xuống giếng và cứ hôm nào cũng mang cơm cho cá bống. Tôi đi chăn trâu xa, ở nhà không biết mẹ con Cám đã làm gì nhưng khi tới nơi cho cá bống ăn thì tôi không thấy nữa, tôi hoảng hốt khi giếng nổi lên một cục máu, vừa thương cá bống vừa tủi thân, tôi khóc. Lần này, Bụt lại hiện lên, bảo tôi phải đi tìm ngay xương của cá bống về chôn ở bốn lọ giường, tôi làm theo và cũng chưa hiểu chuyện gì sẽ xảy ra. Vào một thời gian sau đó, có sự kiện nhà vua mở hội rất lớn. Dì và Cám không muốn cho tôi đi nên đã trộn hẳn một đấu thóc với một đấu gạo rồi sai tôi ngồi nhặt riêng từng loại. Tôi lại khóc và Bụt hiện lên giúp đỡ, sai đàn chim sẻ xuống nhặt giúp tôi. Nhưng nghĩ tới việc tôi cũng không có áo quần đi dự hội nước mắt tôi rơi. Bụt hiện lên và bảo tôi đào bốn cái lọ ở chân giường lên. Ôi! Biết bao nhiêu thứ. Nào là áo quần đẹp, giày thêu, cả một con ngựa và bộ yên cương xinh vội thay y phục thắng ngựa đi tham dự hội. Không may giữa đường tôi làm rơi mất một chiếc giày, thế là tôi gói chiếc giày còn lại kia vào khăn rồi đi tiếp. Đến tận bây giờ tôi vẫn không biết tại sao nhà vua lại lượm được chiếc giày đó của tôi. Cũng nhờ đó mà bây giờ tôi mới có diễm phúc làm vợ chàng. Lúc này, bất ngờ cả thân cau rung chuyển khiến tôi vô cùng sợ hãi và lo lắng. Tôi vội hỏi dì thì dì nói là dì đuổi kiến. Tôi chưa kịp xé cau thì cây đổ. Khoảng thời gian trước khi tôi không còn biết gì nữa thì tôi vẫn nhận ra chính dì đã âm mưu hại tôi. Cuối cùng, sau khi tôi bị bà dì ghẻ hại và ngã xuống ao chết, linh hồn tôi đã gặp lại Bụt. Bụt thương tình giúp tôi hóa thành vàng anh trở về. Tôi bay một mạch về kinh, thấy Cám đang ngồi giặt áo cho vua ở giếng, tôi dừng lại trên một cành cây, bảo nó “Phơi áo chồng tao phơi lao phơi sào, chớ phơi bờ rào, rách áo chồng tao”. Nói đoạn, tôi bay thẳng vào trong cung đậu ở cửa sổ, hót lên rất vui tai. Nhà vua đi đâu, tôi sẽ bay đến đó. Có lẽ, nhà vua đang rất nhớ tôi nên khi thấy chim quyến luyến theo mình, vua bảo “Vàng ảnh vàng anh, có phải vợ anh, chui vào tay áo”. Nhà vua nói xong, tôi bay lại đậu vào tay vua, rồi rúc vào tay áo. Tôi không biết nhà vua có thực sự biết chim vàng anh là tôi hóa thân hay không nhưng quả thật chàng yêu quý vàng anh quên cả ăn ngủ. Vua sai làm một cái lồng bằng vàng cho tôi ở. Cám thấy nhà vua ngày ngày mê mải bên tôi, không mảy may nghĩ đến mình nên vô cùng ghen tức. Nó về nhà mách mẹ, dì ghẻ mách nó giết chim rồi tìm cớ nói dối vua. Hôm sau, nhân lúc vua đi vắng, Cám bắt tôi làm thịt ăn, rồi vứt lông ở ngoài vườn. Nhà vua trở về không thấy tôi liền vô cùng tức giận. Cám nói với vua rằng nó có mang thèm ăn thịt chim nên trộm phép vua đã giết thịt ăn mất rồi. Vua nghi ngờ nhưng không nói gì cả. Mẹ con Cám tiếp tục độc ác, giết cả chim vàng anh, tôi lại được Bụt giúp đỡ hóa ra hai cây xoan đào từ đống lông chim. Khi vua đi chơi vườn ngự, cành lá của xoan sà xuống che kín thành bóng tròn như hai cái lọng. Vua thấy cây đẹp rợp bóng, sai lính hầu mắc võng vào hai cây rồi nằm chơi hóng mát. Kể từ đó, không ngày nào là vua không ra nằm hóng mát ở hai cây xoan đào. Nhưng rồi Cám biết chuyện lại về mách mẹ. Dì ghẻ bảo nó cứ sai thợ chặt cây làm khung cửi rồi kiếm điều nói dối vua. Về đến cung, nhân hôm gió bão, Cám sai thợ chặt hai cây xoan đào lấy gỗ đóng khung cửi. Khi thấy cây bị chặt, vua hỏi thì Cám đáp “Cây bị đổ vì bão, thiếp sai thợ chặt làm khung cửi để dệt áo cho bệ hạ”. Nhưng tôi đâu có để yên cho Cám, hồn tôi một lần nữa theo hai cây xoan đào nhập vào khung cửi. Khi Cám ngồi dệt, tôi đều nguyền rủa nó. “Cót ca cót két, Lấy tranh chồng chị, Chị khoét mắt ra” Một hôm, vua ghé vào quán nước. Nhìn thấy mấy miếng trầu têm cánh phượng, người ấy hỏi ai têm, bà lão đáp là con gái mình têm. Tôi đứng nép sau bức mành, nghe rõ câu chuyện và nhận ra nhà vua. Nhà vua năn nỉ bà lão đưa con gái ra cho mình xem mặt. Tôi vừa xuất hiện, nhà vua đã nhận ra ngay, bèn bảo bà lão thuật lại sự tình, rồi ra lệnh cho lính hầu mang kiệu rước tôi và bà lão về cung. Tôi mừng và hạnh phúc lắm vì duyên phận vợ chồng không dễ dàng gì có được, xa cách bao lâu lại về với nhau. Cám thấy tôi vẫn còn sống mà lại trắng đẹp hơn xưa nên Cám băn khoăn tự hỏi vì sao. Tôi bày cho Cám tắm với nước sôi thì sẽ đẹp. Cám hí hửng làm theo, Cám không biết là nước sôi có thể làm bỏng và nó lập tức chết. Dì ghẻ thấy vậy kinh hoàng, cũng lăn đùng ra mà chết. Từ đó, tôi sống hạnh phúc bên nhà vua, không có ai có thể ngăn cản được tình yêu và cuộc sống của chúng tôi nữa. Hóa thân thành Tấm kể lại câu chuyện – Mẫu 3 Tôi là Tấm, là hoàng hậu của một nước. Để có được cuộc sống hạnh phúc, viên mãn bên người mình yêu thương như hiện tại, tôi đã phải đánh đổi rất nhiều. Đó là những lần “chết đi sống lại”, là những lần trao lầm niềm tin cho người lòng dạ độc ác, là những lần vực dậy từ đau thương để đấu tranh cho chính mình. Sau đây, tôi sẽ kể cho các bạn nghe câu chuyện về cuộc đời của mình. Mẹ tôi mất từ khi tôi còn rất sớm. Cha tôi đi bước nữa, cưới một người vợ mới và sinh ra em Tấm, Cuộc sống thuở ấy của tôi vẫn còn khá êm đềm bởi vì dì còn kiêng dè cha. Nhưng chẳng bao lâu sau, khi cha tôi qua đời, dì đã thay đổi hoàn toàn thái độ đối với tôi. Dì luôn chửi bới, hằn học, bắt tôi làm mọi công việc nặng nhọc trong nhà. Trong khi tôi phải quần quật làm từ sáng tới tận khuya, thì em Cám lại được nuông chiều hết mực. Dẫu vậy, tôi vẫn chẳng hề oan thán và âm thầm chịu đựng. Một ngày nọ, dì gọi tôi và Cám đến, cho mỗi đứa một cái giỏ kèm với lời dặn dò, rằng ai bắt được đầy giỏ sẽ được thưởng cho một cái yếm đào. Với một đứa chẳng bao giờ được mặc quần áo mới như tôi, đây là một phần thưởng vô cùng lớn lao. Vì thế, tôi chuyên tâm làm việc. Chẳng mấy chốc, giỏ của tôi đã đầy. Ngược lại, em Cám vẫn mãi rong chơi, chẳng màng đến việc bắt tôm tép. Mặc cho lời nhắc nhở của tôi, Cám vẫn tiếp tục chơi đùa. Một lúc sau, khi tôi đã hoàn thành nhiệm vụ và lên bờ nghỉ ngơi để chuẩn bị ra về, thì Cám lại bảo với tôi “Chị Tấm ơi chị Tấm, đầu chị lấm, chị hụp cho sâu kẻo về mẹ mắng”. Tin lời em Cám và cũng một phần sợ bị mắng mà tước đi phần quà, tôi liền lội xuống nước gội đầu cho thật sạch. Nhưng rồi, khi tôi trở lên bờ, giỏ tép của tôi đã chẳng còn tôm tép đầy ắp nữa. Cùng với đó, Cám cũng đã bỏ về nhà từ bao giờ. Tủi thân, tôi ngồi ôm mặt khóc. Đang khóc nức nở thì bên tai bỗng vang lên giọng nói trầm ấm “Tại sao con khóc?”. Trước mắt tôi là ông Bụt mang khuôn mặt phúc hậu cùng nụ cười hiền từ. Tôi vừa khóc vừa kể lại cho Bụt nghe sự việc. Bụt suy ngẫm một chút, thì bảo tôi xem trong giỏ còn sót gì hay không. Tôi nghe theo, tìm thử thì thấy một con bống nhỏ. Sau đó, Bụt dặn tôi đem cá bống ấy về thả xuống giếng, mỗi bữa đều đặn cho nó ăn một bát cơm, kèm theo đó là lời gọi “Bống bống bang bang – Lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta – Chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người”. Tấm bị Cám lừa hêt tôm tép trong giỏ Tôi nghe theo lời Bụt, đem cá bống nuôi dưới giếng và mỗi bữa đều giành cơm để giấu đem cho cá bống. Qua một thời gian, Bống lớn lên trông thấy và dần được tôi xem như một người bạn. Một ngày nọ, dì ghẻ dặn tôi mai đi chăn trâu phải chăn ở đồng xa, vì làng cấm đồng và sẽ bắt mất trâu nếu chăn ở đồng làng. Vâng lời, tôi dắt trâu đi. Nào ngờ, Cám đã theo dõi tôi và biết được chuyện tôi giấu nuôi cá bống. Vì thế, ở nhà hai mẹ con dì ghẻ đã bắt chước tôi gọi bống lên rồi giết thịt. Khi trở về, tôi như thường lệ gọi bống lên cho ăn nhưng chỉ thấy nổi lên một cục máu. Mất đi bống, tôi như mất đi một người bầu bạn. Tôi tủi thân lại ngồi khóc. Lần này, Bụt lại hiện lên và bảo tôi tìm lại xương của cá bống. Sau khi tìm được, phải chia làm bốn lọ chôn ở bốn chân giường. Dù khá thắc mắc, nhưng tôi vẫn làm theo lời của Bụt. Ít lâu sau, nhà vua mở hội. Là con gái, ai mà không thích được mặc váy vóc đẹp đi chơi hội. Ngày hội đến, tôi đã chuẩn bị quần áo tinh tươm. Dẫu chẳng đẹp đẽ như người ta, nhưng cũng khiến tôi không thể ngừng vui vẻ. Ấy vậy mà, vì sự ghen ghét của Cám với tôi, em ấy đã bảo mẹ tìm mọi cách bắt tôi ở nhà. Niềm vui nhanh chóng bị dập tắt khi dì bưng cả gạo lẫn thóc hòa lẫn vào nhau, sau đó bảo tôi phải nhặt xong thì mới được đi hội. Bao nhiêu nỗi buồn cùng sự tủi thân dồn nén, tôi lại khóc. Một lần nữa, Bụt đã hiện lên và giúp đỡ tôi. Bụt sai chim sẻ đến nhặt thóc giúp tôi, rồi bảo tôi đào bốn lọ xương cá bống đã chôn từ trước lên. Bên trên bốn lọ xương cá là những thứ đẹp mắt giúp tôi có thể đẹp đẽ, tinh tươm nhất khi đi hội. Mừng rỡ vô cùng, tôi vội cảm tạ Bụt rồi nhanh chóng đi xem hội. Trên đường đi, tôi đánh rơi mất một chiếc hài nhưng lại không kịp nhặt lên, đành phải gói kĩ chiếc còn lại rồi chen vào biển người chơi hội. Nào ngờ, khi tôi vừa rời đi, kiệu vàng của nhà vua vừa đến chỗ lội tôi đánh rơi giày thì hai con voi dẫn đầu cứ không chịu đi. Thấy sự lạ, nhà vua đã sai quân lính đi xem thử và họ nhặt được chiếc hài của tôi. Nhà vua ngắm nghía đôi hài, rồi ra lệnh cho tất cả phụ nữ, ai thử vừa chiếc hài trên sẽ được nhà vua cưới làm hoàng hậu. Tin vua vừa ban ra, đám hội lại được dịp xôn xao và náo nhiệt hơn hẳn, Các bà, các cô, các chị em đều chen nhau đến thử hài, nhưng lại chẳng có ai đeo vừa, trong đó có cả mẹ con Cám. Đến lượt tôi thử giày, chân tôi vừa đặt vào đã vừa như in. Sau đó, tôi mở khăn lấy chiếc hài còn lại đi cả vào. Lúc này, quân lính reo hò, báo đến với vua. Cũng kể từ đó, tôi trở thành hoàng hậu và sống một cuộc sống hạnh phúc. Hạnh phúc chưa được bao lâu, thì tai ương từ đâu lại ập đến. Một thời gian sau, tôi xin phép vua về giúp mẹ con dì soạn cỗ cúng nhân dịp giỗ cha. Cả hai mẹ con dì ghẻ đều ghen ghét vì tôi được làm hoàng hậu nhưng vẫn cố giấu và niềm nở cười với tôi. Sau đó, dì nhờ tôi trèo lên cây cau lấy một buồng để cúng cha. Nào ngờ dì ta lại chặt gốc cây để đẩy tôi vào chỗ chết. Tiếp đó, dì lấy quần áo của tôi cho Cám mặc rồi đưa em vào cung thay thế vị trí của tôi. Linh hồn của tôi hóa thành chim vàng anh. Vì nhớ nhung nhà vua, tôi chỉ quanh quẩn ở khu vườn ngự yến. Nhận thấy sự xuất hiện của tôi, nhà vua dường như nhận ra điều gì đó nên đã bảo “Vàng ảnh vàng anh, có phải vợ anh, chui vào tay áo”. Vừa dứt lời, tôi đã đậu lên vai và rúc vào tay áo chàng. Cám biết chuyện, liền chạy về mách mẹ Cám. Thế rồi nhân lúc nhà vua đi vắng, mẹ Cám đã bắt tôi làm thịt, sau đó vứt lông chim ra vườn. Khi phát hiện thiếu vắng bóng dáng vàng anh, nhà vua hỏi Cám thì nàng ta lại nói dối rằng mình đang có mang, thèm ăn nên đã giết chim làm thịt. Nhà vua dù giận và xót thương nhưng cũng chẳng thể nói gì. Từ đám lông chim mẹ con Cám vứt sau vườn, tôi hóa thân thành hai cây xoan đào. Nhà vua thường hay đi dạo trong vườn, mỗi khi chàng đi qua, tôi sẽ xòa cành lá che nắng mưa cho chàng. Thấy vậy, nhà vua liền sai lính hầu mắc võng ở giữa hai thân cây nằm hóng mát. Cám lại về mách với mẹ và được bà ta xúi sai thợ chặt đi rồi đóng thành khung cửi để dệt áo cho nhà vua. Hóa thân thành Tấm kể lại câu chuyện – Mẫu 4 Trong cuộc đời, ai cũng sẽ trải qua những chuyện khiến bản thân mình trưởng thành hơn và không thể nào quên được. Tôi đã trải qua nhiều lần “chết đi sống lại” mới có được một cuộc sống viên mãn, hạnh phúc như hiện tại. Tôi xin phép kể cho các bạn nghe về câu chuyện của cuộc đời tôi. Tôi sinh ra trong một gia đình nhà nông bình thường. Mẹ tôi chẳng may qua đời sớm, tôi sống cùng với cha. Chẳng bao lâu cha tôi lấy một người phụ nữ khác về làm vợ và sinh được một người em gái tên là Cám. Chẳng bao lâu sau, cha tôi qua đời để lại tôi sống cùng dì và em. Tuy nhiên, họ không coi tôi là người trong gia đình mà đối xử với tôi vô cùng quá đáng. Hằng ngày tôi phải làm việc lam lũ từ sáng đến tối mịt mà không có ngày nghỉ. Tôi nhớ có lần dì treo thưởng cho tôi và Cám xem ai bắt được nhiều cá tôm hơn sẽ thưởng cho một chiếc yếm đào. Tôi hì hục làm việc từ sáng đến tối, Cám chỉ ham chơi nhưng cuối cùng đã lừa tôi, trút hết cá tôm vào giỏ của nó để mang về lấy thưởng chỉ để sót lại một chú cá bống. Tôi buồn bã nhưng quyết định mang cá bống về thả vào giếng để nuôi, ngày ngày cho nó ăn, chăm sóc nó và coi nó như một người bạn thân thiết. Một hôm, tôi đi làm về gọi mãi không thấy cá bống lên ăn cơm, tôi đau buồn. Bụt hiện lên và cho tôi biết rằng họ đã giết hại cá của tôi, Bụt bảo tôi đi tìm xương cá và đem chôn dưới chân giường, tôi vâng lời nghe theo. Một thời gian sau, nhà vua mở hội, mẹ con Cám không cho tôi đi chơi, bắt tôi ở nhà nhặt gạo và thóc bị trộn lẫn lại riêng ra. Tôi bất lực thì Bụt hiện lên và giúp tôi nhặt chúng. Bụt bảo tôi đào xương cá bống lên, tôi sững sờ khi xương cá biến thành bộ trang phục đẹp đẽ. Tôi cám ơn Bụt và đi đến lễ hội. Trên đường đi không may tôi làm rơi chiếc giày, nhưng thật bất ngờ, vua nhặt được và ra lệnh ai đi vừa chiếc giày đó sẽ lấy về làm vợ. Vì đó là chiếc giày của tôi nên không ai đi vừa dù có cả mẹ con Cám. Sau khi thử vừa chiếc giày, vua lấy tôi về làm vợ, tôi trở thành hoàng hậu và có cuộc sống hạnh phúc bên cạnh nhà vua. Một lần tôi về giỗ cha, Cám có bảo tôi trèo cây hái cau, tôi liền trèo vì từ nhỏ tôi đã quen với những việc này, nhưng điều tôi không ngờ chính là mẹ con họ đã chặt gốc cây lúc tôi đang hái cau khiến tôi ngã xuống ao và chết rồi đưa Cám vào cung thay tôi làm hoàng hậu. Cuộc đời tôi không chấm hết ở đó, nhà được Bụt giúp đỡ, tôi biến thành chim vàng anh ở cạnh vua, Cám lại giết hại chim. Tôi hóa thân thành cây xoan, ả ta chặt cây hòng tiêu diệt. Tôi hóa thân thành khung cửi, cô ta đốt khung cửi và ném tro ra xa hoàng cung. Ở nơi xa áy tôi hóa thành cây thị và được một bà lão hái quả về nhà. Hằng ngày tôi giúp bà dọn dẹp nhà cửa, sau đó trở thành con của bà. Một hôm, nhà vua đi qua đó nhận ra miếng trầu tôi têm nên đã đón tôi trở lại hoàng cung. Mẹ con Cám nhìn thấy tôi xinh đẹp hơn xưa vừa sợ hãi vừa tò mò. Tôi đã trừng trị hai mẹ con ả một cách thích đáng sau những tội ác họ đã làm và sống hạnh phúc với nhà vua đến bây giờ. Câu chuyện tuy đã trôi xa nhưng nó mãi là những kí ức tôi không bao giờ quên. Nó là bài học để đời của tôi trong cuộc sống. Chúng ta không nên độc ác với người khác nếu không sẽ nhận lại hậu quả khôn lường. Hãy giữ cho bản thân mình một tâm hồn và trái tim lương thiện. Hóa thân thành Tấm kể lại câu chuyện – Mẫu 5 Tôi là Tấm, hoàng hậu của một nước. Hôm đó nhân ngày giỗ của cha, tôi trở về nhà với bao cho tròn chữ hiếu, nhưng nào ngờ đâu, cuộc đời tôi bắt đầu với nhiều biến cố xảy ra đúng ngày hôm ấy. Tôi về đến nhà khi mặt trời chưa qua khỏi ngọn tre. Dì và Cám rất niềm nở chào đón tôi một cách khác thường. Dì nhờ tôi trèo lên cây cau xé một buồng để cúng cha. Tôi vâng lời dì trèo lên. Tôi nhớ về ngày xưa khi tôi chưa trở thành hoàng hậu, tôi vẫn thường trèo xé cau mang bán. Bao nhiêu kí ức chợt trở về. Tôi mồ côi mẹ từ bé, được ít lâu thì cha đi bước chẳng bao lâu, cha cũng bỏ tôi mà đi. Cũng từ đó tôi sống cùng dì ghẻ và Cám – cô em gái cùng cha khác mẹ với tôi. Từ lúc cha mất, tôi phải làm rất nhiều việc ra đồng chăn trâu từ sáng sớm, rồi về nhà gánh nước, đến thái khoai, vớt bèo. Ban đêm còn phải xay lúa nữa cũng chưa hết việc … Có lần dì đưa cho tôi và Cám mỗi người một cái giỏ bảo ra đồng bắt tôm tép, ai bắt được nhiều hơn thì dì thưởng yếm đỏ. Tôi mò cua bắt ốc đã quen nên chỉ một lát là xong, thấy vậy Cám lừa tôi, tranh thủ chút hết tôm tét vào giỏ của nó. Phát hiện, tôi chỉ biết ngồi khóc, Bụt đã hiện lên hỏi tôi sự tình. Sau đó Bụt này bảo tôi tìm lại trong giỏ xem còn thứ gì nữa không. Trong giỏ chỉ còn con cá bống. Tôi đem con cá bống ấy về nuôi nhưng không được bao lâu thì bống bị người ta ăn thịt. Bụt lại hiện lên và bao tôi tìm lại xương bống rồi đem chôn ở 4 chân giường. Ít lâu sau thì nhà vua mở hội. Dì và Cám không muốn cho tôi đi nên đã trộn hẳn một đấu thóc với một đấu gạo rồi sai tôi ngồi nhặt riêng từng loại. Tôi lại khóc và Bụt hiện lên giúp đỡ, sai đàn chim sẻ xuống nhặt giúp tôi. Nhưng nghĩ tới việc tôi cũng không có áo quần đi dự hội nước mắt tôi rơi. Bụt hiện lên và bảo tôi đào bốn cái lọ ở chân giường lên. Ôi! Biết bao nhiêu thứ. Nào là áo quần đẹp, giày thêu, cả một con ngựa và bộ yên cương xinh vội thay y phục thắng ngựa đi tham dự hội. Không may giữa đường tôi làm rơi mất một chiếc giày, thế là tôi gói chiếc giày còn lại kia vào khăn rồi đi tiếp. Đến tận bây giờ tôi vẫn không biết tại sao nhà vua lại lượm được chiếc giày đó của tôi. Cũng nhờ đó mà bây giờ tôi mới có diễm phúc làm vợ chàng. Đột nhiên cả thân cau rung chuyển đưa tôi trở về với thực tại. Tôi vội hỏi dì thì dì nói là dì đuổi kiến. Tôi chưa kịp xé cau thì cây đổ. Khoảng thời gian trước khi tôi không còn biết gì nữa thì tôi vẫn nhận ra chính dì đã âm mưu hại tôi. Đôi mắt tôi từ từ nhắm lại và tôi cảm thấy như tôi được đưa tới một thế giới khác. Khi mở mắt ra thì tôi không còn là mình nữa mà là một chú chim vàng anh nhỏ bé. Tôi bay trở về hoàng cung với mong muốn ở cạnh chồng mình. Thì ra dì ghẻ và Cám hãm hại để thay thế tôi ở bên cạnh chàng. Tôi bèn đậu trên cành cây hót vang “Phơi áo chồng tao phơi lao phơi sào, chớ phơi bờ rào, rách áo chồng tao.” Sau đó, tôi đi tìm chồng mình. Vì tiếng hót vui tai, tôi luôn líu lo bên cạnh chàng. Cho đến khi chàng nói “Vàng ảnh, vàng anh, có phải vợ anh chui vào tay áo” thì tôi biết rằng chàng vẫn luôn nhớ về mình. Chàng bèn sai người làm một cái lồng bằng vàng cho tôi ở, sau đó tôi và chàng lại quấn quýt bên nhau. Cám thấy vậy, nhân lúc chàng đi vắng bèn giết thịt rồi vứt lông ra ngoài vườn. Lần này thì Bụt hiện lên, giờ tôi đã biết lần trước Bụt đã giúp tôi biến thành vàng anh, cho tôi cơ hội sống lại. Lần này người lại giúp tôi biến thành hai cây xoan đào ngay tại đống lông chim đó. Khi đi ra vườn ngự, chẳng mấy cây lớn tỏa bóng mát, chàng thấy vậy bèn sai quân hầu mắc võng cho chàng. Mặc dù tôi không thể nói gì được gì dưới hình hài xoan đào nhưng được ở bên cạnh chàng tôi cũng rất hạnh phúc. Cũng chẳng được bao lâu, Cám lại quyết tâm ra tay với tôi, trong đêm mưa gió ấy, chính Cám đã dùng dao chặt tôi ra từng đoạn. Tôi đau đớn nhưng tôi không thể kêu cứu. Cám mang tôi đi đóng thành khung cửi. Vì quá tức giận nên khi Cám sử dụng khung cửi tôi đã chửi rủa ”Cót ca cót két, lấy tranh chồng chị,chị khoét mắt ra “. Cám sợ hãi ra mặt, chạy vội đi, cuối cùng Cám dùng một ngọn lửa để khiến tôi một lần nữa biết mất. Có lẽ nó muốn chắc chắn hơn nên đã mang tất cả phần tro bụi còn lại của tôi ra khỏi hoàng cung, mang đi thật xa. Nhưng có lẽ số phận chưa muốn chàng và tôi phải xa nhau mãi mãi nên từ chỗ tro bụi của tôi mọc lên một cây thị. Con người tôi một lần nữa lại biến hóa. Tôi trở thành một trái thị duy nhất trên cây, tỏa hương thơm ngát. Cho đến một ngày, bà hàng nước ngửi thấy mùi thơm, ngẩng đầu nhìn lên và nói “Thị ơi thị, rụng vào bị bà, bà đem bà ngửi chứ bà không ăn” thì tôi biết rằng tôi đã gặp được người tốt thực sự. Tôi thả mình vào bị của bà trao phó số mệnh tôi vào tay con người ấy nhưng tôi hi vọng lần này là lần cuối cùng tôi phải biến hóa. Có lẽ tôi đã lựa chọn đúng khi quyết định rơi vào bị bà hàng nước ấy. Ngày nào bà lão cũng đi chợ và khi ấy tôi mới chui khỏi vỏ thị để phụ bà lão dọn dẹp nhà cửa. Thật hạnh phúc làm sao khi trở về với hình dáng con người. Như mọi ngày, khi bà lão ra khỏi nhà thì tôi lại thoát mình ra khỏi vỏ thị để giúp bà dọn dẹp nhà cửa nhưng hôm nay thì bà lão đột nhiên trở về. Bà chạy ngay tới và ôm chầm lấy tôi, xé vụn vỏ thị. Từ đó tôi sống chung với bà lão và bà ấy coi tôi giống như con gái bà. Tuy có được cuộc sống bình yên nhưng tôi lúc nào cũng nhớ về chàng vì vậy tôi luôn têm trầu cánh phượng mà nhớ đến chàng. Cuối cùng, chắc số phận thương tình, chàng ghé chân qua hàng nước của bà lão, thấy miếng trầu hình dáng quen thuộc mới hỏi chuyện. Thế là vợ chồng tôi đã được đoàn tụ, tôi hạnh phúc khôn cùng. Qua bao đau khổ, giờ đây tôi chỉ mong sống phần đời còn lại của mình thật yên bình và hạnh phúc bên chàng mà thôi. Và tôi cũng chợt hiểu ra, mọi thứ trên đời này đều có quan hệ nhân quả. Ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác. Hóa thân thành Tấm kể lại câu chuyện – Mẫu 6 Tôi tên là Tấm – là hoàng hậu của một nước. Hiện tại, tôi có một cuộc sống vô cùng viên mãn bên nhà vua và các con của mình. Thế nhưng, ít ai biết được để có ngày hôm nay, tôi đã phải trải qua biết bao chông gai, đau đớn. Tôi sẽ kể lại cho các bạn nghe câu chuyện về cuộc đời của mình. Khi tôi còn rất nhỏ, mẹ tôi mất sớm. Cha tôi đi bước nữa và sinh ra Cám, em gái cùng cha khác mẹ với tôi. Dì ghẻ có vẻ không ưa gì tôi, nhưng vì dì còn kiêng dè cha nên cuộc sống của tôi trôi qua vẫn khá êm đềm. Chẳng bao lâu sau, cha tôi qua đời. Từ khi cha tôi mất, dì ghẻ ghét tôi ra mặt. Tất cả việc nặng nhọc trong nhà từ chăn trâu, cắt cỏ đến xay lúa, giã gạo …. dì đều bắt tôi làm hết. Còn Cám, em gái tôi thì được nuông chiều, chẳng bao giờ động tay vào bất cứ việc gì. Tôi đã làm việc ngày đêm, có khi kiệt sức nhưng không dám oán than hay tị nạnh nửa lời. Một ngày nọ, dì gọi tôi và Cám đến rồi đưa cho mỗi đứa một cái giỏ. Dì bảo hai đứa ra đồng bắt tôm tép, đứa nào bắt được đầy giỏ thì sẽ được thưởng một cái yếm đào. Nghe dì nói vậy, tôi vô cùng vui mừng. Đã lâu lắm rồi, từ khi cha không còn, tôi chẳng có nổi một bộ quần áo mới. Quần áo tôi mặc trên người đều là quần áo cũ dì cho. Phần vì cái yếm đào mới, phần vì đã quen việc, chẳng mấy chốc tôi đã bắt được lưng cái giỏ. Nhìn sang Cám vẫn mải rong chơi, đuổi hoa bắt bướm tôi nhắc em mau mau bắt cá kẻo trời tối. Nghe vậy, Cám mặc kệ lời tôi nói, vẫn tiếp tục chơi đùa. Một lúc sau, khi đã bắt được đầy giỏ tép cùng tôm, tôi lên bờ ngồi nghỉ chuẩn bị ra về. Bỗng, Cám nói với tôi “Chị Tấm ơi chị Tấm, đầu chị lấm, chị hụp cho sâu kẻo về mẹ mắng”. Tin lời Cám, tôi lội xuống nước gội đầu thật kĩ. Khi tôi trở lên bờ, Cám đã không còn ở đấy nữa. Giỏ tép của tôi trống không nằm lăn lóc bên bờ ruộng. Thì ra Cám đã lừa lúc tôi gội đầu trút hết tôm tép trong giỏ của tôi và về nhà trước. Vừa giận, vừa tủi, tôi ôm mặt khóc. Bỗng, bên tai tôi vang lên giọng nói trầm ấm “Tại sao con khóc?”. Tôi ngẩng mặt lên. Bụt hiện ra trước mắt tôi, khuôn mặt người phúc hậu cùng với nụ cười hiền từ. Tôi kể lại đầu đuôi câu chuyện cho Bụt nghe. Bụt liền bảo tôi xem trong giỏ còn sót lại gì không. Tôi nhìn vào giỏ và thấy còn một con cá bống nhỏ. Bụt dặn tôi đem con cá bống về thả xuống giếng nuôi, mỗi bữa bớt cho nó một bát cơm. Mỗi lần cho bống ăn thì gọi “Bống bống bang bang Lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta Chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người” Về nhà, tôi làm theo lời Bụt căn dặn, thả bống xuống giếng. Mỗi bữa ăn, tôi đều để giành cơm, giấu đem cho bống. Nghe tôi gọi, bống ngoi lên mặt nước ăn hết những hạt cơm tôi rắc xuống. Bống lớn lên trông thấy. Thế nhưng tôi đã không lường trước được rằng, việc tôi lén lút mang cơm ra giếng sau mỗi bữa ăn đã làm dì ghẻ sinh nghi. Tối hôm đó, dì ghẻ bảo tôi rằng “Con ơi con! Làng đã bắt đầu cấm đồng rồi đấy. Mai con đi chăn trâu, phải chăn đồng xa, chớ chăn đồng nhà, làng bắt mất trâu”. Tôi vâng lời mà không mảy may nghi ngờ gì. Sáng hôm sau, khi tôi dắt trâu đi, Cám ở nhà bắt chước tôi gọi bống lên, dì ghẻ trực sẵn, bắt bống giết thịt. Đến chiều, tôi dắt trâu về. Như thường lệ, tôi mang cơm ra cho bống nhưng gọi mãi, gọi mãi không thấy bống đâu, chỉ có một cục máu nổi lên mặt nước. Biết có sự chẳng lành, tôi òa khóc nức nở. Bụt lại hiện lên hỏi “làm sao con khóc?”. Tôi kể sự tình cho Bụt nghe, Bụt bảo “Con bống của con, người ta đã ăn thịt mất rồi. Thôi con hãy nín đi! Rồi về nhặt xương nó, kiếm bốn cái lọ bỏ vào, đem chôn xuống dưới bốn chân giường con nằm”. Nghe lời Bụt, tôi trở về tìm xương bống nhưng tìm khắp các xó vườn mà không thấy. Một con gà thấy thế bảo tôi rằng “Cục ta cục tác, cho ta nắm thóc, ta bới xương cho”. Tôi vui mừng lấy một nắm thóc ném cho gà. Gà chạy vào bếp bới một lúc thì tìm được xương ngay. Tôi vui mừng nhặt lấy bỏ vào lọ và đem chôn dưới chân giường như lời Bụt dặn. Ít lâu sau, nhà vua mở hội. Già trẻ trai gái các làng đều nô nức đi xem. Trên các nẻo đường, quần áo mớ ba mớ bảy dập dìu tuôn về kinh như nước chảy. Hai mẹ con Cám cũng sửa quần áo đẹp để đi trẩy hội. Không khí lễ hội tưng bừng, náo nhiệt làm tôi vô cùng háo hức. Tôi cũng muốn được đi dự hội. Dì ghẻ thấy tôi ngỏ ý muốn đi thì lấy một đấu gạo trộn lẫn với một đấu thóc, bảo tôi phải nhặt gạo ra gạo, thóc ra thóc xong xuôi mới được đi hội. Tôi không dám trái lời dì nên vâng lời nhưng ngồi nhặt một lúc lâu mà chỉ mới được một nhúm nhỏ. Quá buồn bã và tủi thân, tôi bật khóc. Giữa lúc ấy Bụt hiện lên, hỏi “Con làm sao lại khóc?”. Tôi chỉ cho Bụt xem cái thúng lẫn thóc với gạo thưa “Dì con bắt phải nhặt thóc cho ra thóc, gạo ra gạo, rồi mới được đi xem hội. Lúc nhặt xong thì hội đã tan rồi, còn gì nữa mà xem.” Bụt bảo “Con đừng khóc nữa. Con mang cái thúng đặt ra giữa sân, để ta sai một đàn chim sẻ xuống nhặt giúp”. Nghe Bụt nói, tôi vô cùng lưỡng lự. Tôi lo sợ chim sẻ sẽ ăn mất thóc gạo, khi dì ghẻ về tôi vẫn cứ bị đòn. Bụt cười hiền từ căn dặn “Con cứ bảo chúng thế này Rặt rặt xuống nhặt cho tao Ăn mất hạt nào thì tao đánh chết thì chúng sẽ không ăn của con đâu.” Thế rồi, trên không có một đàn chim sẻ đáp xuống sân nhặt thóc ra một đằng, gạo ra một nẻo. Chúng nó lăng xăng ríu rít chỉ trong một lát đã làm xong, không suy suyển một hạt. Nhưng khi chim sẻ đã bay đi rồi, tôi lại chợt nhớ ra, mình rách rưới quá, sẽ không được cho vào xem hội. Bụt mỉm cười bảo “Con hãy đào những cái lọ xương bống đã chôn ngày trước lên thì sẽ có đủ mọi thứ cho con trẩy hội.”. Vâng lời, tôi đi đào các lọ lên. Đào lọ thứ nhất tôi thấy một bộ quần áo mới, một cái yếm lụa đào và một cái khăn nhiễu. Đến khi đào lọ thứ hai tôi lại lấy được một đôi giày thêu, đi vừa như in. Lọ thứ ba đào lên thì có một con ngựa bé tí, nhưng vừa đặt con ngựa xuống đất bỗng chốc nó hí vang lên và biến thành ngựa thật. Lọ thứ tư thì có một bộ yên cương xinh xắn. Tôi mừng quá vội vàng tắm rửa rồi thắng bộ vào, đoạn cưỡi lên ngựa mà đi. Ngựa phóng một chốc đã đến kinh đô. Nhưng khi phóng qua một chỗ lội, do bất cẩn, tôi đã đánh rơi một chiếc giày xuống nước không kịp nhặt. Khi ngựa dừng lại ở đám hội, tôi lấy khăn gói chiếc giày còn lại rồi chen vào biển người. Giữa lúc ấy thì đoàn xa giá của vua vừa tiến đến chỗ lội. Nhà vua đã kể lại với tôi rằng, khi hai con voi ngự dẫn đầu đoàn đến đây tự nhiên cắm ngà xuống đất kêu rống lên không chịu đi. Nhà vua sai quân lính xuống nước xem thử và nhặt được chiếc giày thêu của tôi đánh rơi lúc nãy. Nhà vua nói chàng đã ngắm nghía chiếc giày rất lâu và thầm nhủ người đi giày này hẳn phải là trang tuyệt sắc. Lập tức vua hạ lệnh cho rao mời tất cả đám đàn bà con gái đi xe hội đến ướm thử, hễ ai đi vừa chiếc giày thì vua sẽ lấy làm vợ. Đám hội lại càng náo nhiệt vì các bà, các cô chen nhau đến chỗ thử giày. Cô nào cô ấy lần lượt kéo vào ngôi lầu giữa bãi cỏ rộng để ướm thử một tý cầu may. Nhưng chả có một chân nào đi vừa cả. Nhìn từ xa, tôi nhận ra chiếc giày mình đánh rơi. Tôi liền lại gần muốn ướm thử. Khi tôi đến, tôi gặp mẹ con Cám đang hậm hực đi ra. Cám mách dì ghẻ “Mẹ ơi, ai như chị Tấm cũng đi thử giày đấy!”. Dì ghẻ của Tấm bĩu môi “Con nỡm! Chuông khánh còn chả ăn ai, Nữa là mảnh chỉnh vứt ngoài bờ tre.” Tôi không nói với dì và Cám rằng đó là chiếc giày của mình mà chỉ lặng lẽ vào ướm giày. Tôi đi vừa như in. Tôi mở khăn lấy chiếc thứ hai đi vào. Hai chiếc giày giống nhau như đúc. Bọn lính hầu hò reo vui mừng. Lập tức vua sai đoàn thị nữ rước tôi vào cung. Tôi vô cùng vui mừng trước niềm hạnh phúc bất ngờ, bước lên kiệu trước con mắt ngạc nhiên và hằn học của mẹ con Cám. Tuy sống trong hoàng cung giàu sang, phú quý nhưng tôi chưa bao giờ quên ngày giỗ cha. Tôi bèn xin phép vua trở về nhà để soạn cỗ cúng giúp dì. Tôi ngây thơ tin tưởng rằng, bây giờ mình đã là hoàng hậu, dì và Cám sẽ yêu thương mình hơn trước mà không nghĩ rằng, hạnh phúc của tôi đã làm mẹ con Cám ghen tức. Chúng âm thầm tính kế hại tôi mà tôi không hề hay biết. Dì ghẻ nói với tôi rằng “Trước đây con quen trèo cau, con hãy trèo xé lấy một buồng để cúng bố.” Tôi không kiêng dè thân phận lại muốn tự mình xé cau cúng cha nên đồng ý. Khi tôi lên đến sát buồng thì ở dưới dì ghẻ cầm dao đốn gốc. Thấy cây rung chuyển, tôi cuống quýt hỏi “Dì làm gì dưới gốc thế?” Dì ghẻ bảo “Gốc cau lắm kiến, dì đuổi kiến cho nó khỏi lên đốt con”. Tôi không mảy may nghi ngờ gì. Nhưng tôi chưa kịp xé cau thì cây đã đổ, tôi ngã xuống và không biết gì nữa. Nghe nói, sau khi tôi chết, mụ dì ghẻ đã lấy áo quần của tôi mặc cho Cám rồi đưa vào cung nói dối với vua rằng tôi không may rơi xuống ao chết đuối, nay đưa em vào để thế chị. Nhà vua không đồng ý nhưng tục xưa là thế nên dù trong bụng không vui nhưng vẫn không nói gì cả. Về phần tôi, sau khi tôi ngã xuống ao chết, linh hồn tôi đã gặp lại Bụt. Bụt thương tình giúp tôi hóa thành vàng anh trở về. Tôi bay một mạch về kinh, thấy Cám đang ngồi giặt áo cho vua ở giếng, tôi dừng lại trên một cành cây, bảo nó “Phơi áo chồng tao phơi lao phơi sào, chớ phơi bờ rào, rách áo chồng tao.” Nói đoạn, tôi bay thẳng vào trong cung đậu ở cửa sổ, hót lên rất vui tai. Nhà vua đi đâu, tôi sẽ bay đến đó. Có lẽ, nhà vua đang rất nhớ tôi nên khi thấy chim quyến luyến theo mình, vua bảo “Vàng ảnh vàng anh, có phải vợ anh, chui vào tay áo”. Nhà vua nói xong, tôi bay lại đậu vào tay vua, rồi rúc vào tay áo. Tôi không biết nhà vua có thực sự biết chim vàng anh là tôi hóa thân hay không nhưng quả thật chàng yêu quý vàng anh quên cả ăn ngủ. Vua sai làm một cái lồng bằng vàng cho tôi ở. Cám thấy nhà vua ngày ngày mê mải bên tôi, không mảy may nghĩ đến mình nên vô cùng ghen tức. Nó về nhà mách mẹ, dì ghẻ mách nó giết chim rồi tìm cớ nói dối vua. Hôm sau, nhân lúc vua đi vắng, Cám bắt tôi làm thịt ăn, rồi vứt lông ở ngoài vườn. Nhà vua trở về không thấy tôi liền vô cùng tức giận. Cám nói với vua rằng nó có mang thèm ăn thịt chim nên trộm phép vua đã giết thịt ăn mất rồi. Vua nghi ngờ nhưng không nói gì cả. Sau khi Cám giết vàng anh, tôi lại được Bụt giúp đỡ hóa ra hai cây xoan đào từ đống lông chim. Khi vua đi chơi vườn ngự, cành lá của xoan sà xuống che kín thành bóng tròn như hai cái lọng. Vua thấy cây đẹp rợp bóng, sai lính hầu mắc võng vào hai cây rồi nằm chơi hóng mát. Kể từ đó, không ngày nào là vua không ra nằm hóng mát ở hai cây xoan đào. Nhưng rồi Cám biết chuyện lại về mách mẹ. Dì ghẻ bảo nó cứ sai thợ chặt cây làm khung cửi rồi kiếm điều nói dối vua. Về đến cung, nhân hôm gió bão, Cám sai thợ chặt hai cây xoan đào lấy gỗ đóng khung cửi. Khi thấy cây bị chặt, vua hỏi thì Cám đáp “Cây bị đổ vì bão, thiếp sai thợ chặt làm khung cửi để dệt áo cho bệ hạ”. Nhưng tôi đâu có để yên cho Cám, hồn tôi một lần nữa theo hai cây xoan đào nhập vào khung cửi. Khi Cám ngồi dệt, tôi đều nguyền rủa nó “Cót ca cót két, Lấy tranh chồng chị, Chị khoét mắt ra.” Nghe vậy, Cám vô cùng sợ hãi vội về mách mẹ. Không biết dì ghẻ đã nói gì với Cám. Hôm sau, nó đem khung cửi đốt thành tro đi đổ ở một nơi rất xa hoàng cung. Có lẽ mẹ con Cám nghĩ làm như vậy tôi sẽ không thể ở bên cạnh nhà vua, đe dọa hạnh phúc của chúng nữa. Nhưng chúng không hề hay biết, tôi luôn được Bụt giúp đỡ, hóa giải mọi âm mưu độc ác của hai mẹ con Cám. Lần này, Bụt hóa phép đống tro bên đường mọc lên một cây thị cao lớn, cành lá sum suê. Đến mùa có quả, cây thị chỉ đậu được có một quả, nhưng mùi thơm tỏa ngát khắp nơi. Đó chính là hóa thân của tôi. Thị thơm ai cũng muốn hái nhưng không làm cách nào có được bởi lẽ tôi đang đợi người có duyên. Đó là bà cụ hàng nước vẫn ngày ngày ngang qua cây thị. Một hôm, bà cụ ngẩng mặt nhìn tôi nhẹ nhàng nói “Thị ơi thị, rụng vào bị bà, bà đem bà ngửi, chứ bà không ăn”. Khi bà lão vừa dứt lời thì quả thị rụng ngay xuống đúng vào bị. Bà lão nâng niu tôi như vật vô giá, đem về nhà cất trong buồng, thỉnh thoảng lại vào ngắm nghía và ngửi mùi thơm. Tôi sợ làm bà cụ giật mình, cũng sợ chuyện li kì về tôi sẽ bị đồn thổi đến tai mẹ con Cám nên náu mình trong quả thị không bao giờ xuất hiện trước mặt bà cụ. Ngày nào bà cũng đi chợ vắng. Cứ khi bà vừa đi, tôi lại bước ra từ trong quả thị giúp bà quét dọn nhà cửa sạch sẽ, rồi vo gạo thổi cơm, hái rau ở vườn nấu canh. Xong xuôi đâu đấy tôi lại thu hình bé nhỏ như cũ rồi chui vào vỏ quả thị. Chắc lâu ngày bà cụ không biết ai giúp đỡ mình bèn giả vờ đi chợ, đến nửa đường đã lén trở về, rình ở bụi cây sau nhà. Như mọi ngày, tôi lại từ quả thị chui ra rồi cũng làm các việc. Bỗng nhiên, bà cụ ở đâu chạy ra, ôm choàng lấy tôi rồi xé tan vỏ thị. Từ đó, tôi ở với bà hàng nước. Vì mẹ mất từ tấm bé, sớm thiếu tình yêu của mẹ nên tôi coi bà như mẹ mà chăm sóc, yêu thương. Hàng ngày tôi giúp bà các việc thổi cơm, nấu nước, gói bánh, têm trầu để cho bà ngồi bán hàng. Cuộc sống êm đềm trôi qua. Thế nhưng, số phận thương tình đã sắp đặt cho tôi cuộc gặp gỡ tình cờ với nhà vua. Hôm ấy, nhà vua đi chơi xa khỏi hoàng cung. Khi nhìn thấy quán nước của mẹ con tôi đã ghé vào. Bà lão mang trầu nước dâng lên vua. Nhà vua thấy trầu têm cánh phượng đã hỏi bà lão “Trầu này ai têm mà khéo vậy”. bà lão thành thực trả lời “Trầu này con gái già têm”. Khi nghe bà lão nói vậy, chàng vô cùng hi vọng người đó là tôi nên đã cho gọi tôi ra xem mặt. Cuối cùng, khi tôi xuất hiện, vua đã ngay lập tức nhận ra tôi dù tôi có phần trẻ đẹp hơn xưa. Nhà vua vui mừng khôn xiết, sai quân hầu đưa kiệu rước tôi về cung. Khi trở về đến hoàng cung, tôi đã kể cho nhà vua nghe đầu đuôi câu chuyện và vạch tội mẹ con Cám. Tức giận trước tội ác họ gây ra, nhà vua hạ lệnh xử tử hai người. Thế nhưng tôi đã xin với vua tha chết cho mẹ con họ. Không phải tôi thương xót họ. Tôi chỉ tin vào nhân quả, họ làm nhiều việc ác thì sớm muộn ắt sẽ bị quả báo. Dù sao, Cám cũng là chị em cùng cha khác mẹ của tôi và dì ghẻ cũng có ơn nuôi tôi khôn lớn. Tôi xin vua đuổi họ đi và không bao giờ được phép trở về hoàng cung nữa. Sau này, tôi nghe nói, không biết Cám được ai bày cách dội nước sôi để trẻ đẹp. Cám hí hửng làm theo và chết một cách đau đớn. Dì ghẻ tôi khi nghe tin con gái chết cũng tuyệt vọng chết theo. Bây giờ, mẹ con họ đã chết còn tôi được hưởng hạnh phúc bên nhà vua. Từ câu chuyện của mình, tôi muốn nói với các bạn rằng “Người hiền lành, phúc đức sẽ được chở che, giúp đỡ. Còn kẻ ác tất bị trừng trị thích đáng”. Hóa thân thành Tấm kể lại câu chuyện – Mẫu 7 Tôi là Tấm, em tôi là Cám – là đứa em cùng cha khác mẹ với tôi. Mẹ tôi mất sớm nên cha đi bước nữa, chẳng được mấy năm cha mất nên tôi sống với dì ghẻ và Cám. Tôi muốn một lần kể lại cuộc đời của mình, về cuộc đời bấp bênh và vô vàn sóng gió cho mọi người nghe. Mặc dù là em trong nhà nhưng Cám được mẹ nuông chiều không phải làm công việc gì trong nhà. Mọi thứ một tay tôi làm hết chỉ có những lúc ăn cơm,Cám mới chịu làm vài việc lặt vặt mà mặt nó cũng phụng phịu. Còn dì ghẻ thì luôn luôn mắng tôi khi muốn xả giận hay ganh ghét vì một điều vô cớ. Nhưng tôi không oán than nửa lời. Một hôm nọ, dì bảo tôi và Cám đi xúc tép, ai xúc được nhiều hơn sẽ được yếm đào. Vốn dĩ từ nhỏ chưa bao giờ tôi được vận trong mình chiếc yếm đào nào mới cả, hôm nay dì lại có dự định như thế khiến tôi cũng háo hức không kém. Ra đồng mò cua bắt ốc từ khi tờ mờ sáng, tôi chỉ thấy Cám lâu lâu chỉ chạy theo hái hoa bắt bướm không biết Cám có bắt được nhiều nghĩ tới cái yếm đào tôi lại vội chăm chỉ tiếp tục công việc của mình. Tới lúc sắp về thì thấy Cám bảo đầu lấm, tôi cũng tin rồi xuống gội đầu, chải chuốt rồi về. Nhưng ai ngờ , Cám lại nhẫn tâm hại tôi, trút hết tép trong giỏ rồi về lấy yếm đào. Tôi hoảng hốt,bao nhiêu công sức thế lại để người khác giành giật tôi chỉ biết khóc. Khói mù mịt thì ra Bụt xuất hiện từ lúc nào,ông chỉ tay vào giỏ và bảo xem có con cá nào không, mang về nuôi. Tôi bèn làm theo lời , trở về mang theo cá bống thả xuống giếng và cứ hôm nào cũng mang cơm cho cá bống. Tôi đi chăn trâu xa, ở nhà không biết mẹ con Cám đã làm gì nhưng khi tới nơi cho cá bống ăn thì tôi không thấy nữa, tôi hoảng hốt khi giếng nổi lên một cục máu, vừa thương cá bống vừa tủi thân, tôi khóc. Lần này, Bụt lại hiện lên, bảo tôi phải đi tìm ngay xương của cá bống về chôn ở bốn lọ giường,tôi làm theo và cũng chưa hiểu chuyện gì sẽ xảy ra. Háo hức tới ngày trẩy hội biết bao nhiêu thì tôi lại càng thất vọng bấy nhiêu, vốn bản tính nhẫn nhịn tôi nghe theo mọi lời của dì mà không hề than trách. Mặc quần áo tinh tươm chuẩn bị mọi thứ, dù không được lành lặn đẹp đẽ như con người ta nhưng đi hội ai mà không thích. Vốn cám ghen ghét tôi, bảo với mẹ là tìm mọi cách để bắt tôi ở nhà. Dì liền bưng cả gạo lẫn thóc hòa vào nhau,rồi bảo tôi nhặt khi nào xong thì mới được đi. Bao nhiêu như thế tôi làm sao nhặt hết chứ. Lại một lần nữa,bụt hiện ra, sai chim sẻ nhặt thóc, xong đâu vào đấy thì bảo tôi đi đào ở 4 lọ đó lên. Tôi mừng rỡ vô cùng, vội cảm tạ Bụt. Chuẩn bị xong xuôi, tôi nhanh chóng lên ngựa đi xem hội. Trong lúc ngựa phóng qua chỗ lội, tôi đánh rơi một chiếc hài xuống nước, không kịp nhặt lên. Đến đám hội, tôi dừng ngựa, lấy khăn gói kĩ chiếc hài còn lại rồi chen vào biển người. Tôi thực sự không biết rằng khi kiệu vàng của nhà vua vừa đến chỗ lội thì hai con voi dẫn đầu không chịu đi, cứ đứng lại, kêu vang lên. Biết có sự lạ, nhà vua sai quân lính thử tìm xem, và họ nhặt được chiếc hài thêu của tôi, vội trình nhà vua. Nhà vua cầm chiếc hài lên, ngắm nghía mãi rồi buột miệng khen “Chiếc hài xinh quá! Người đi hài này hẳn phải là một trang tuyệt sắc!”. Vua ra lệnh cho tất cả đàn bà, con gái thử hài và tuyên bố nếu có ai đi vừa thì sẽ cưới làm hoàng hậu. Đám hội lại càng náo nhiệt. Các bà, các cô chen nhau đến chỗ thử hài nhưng không ai đi vừa. Mẹ con Cám cũng vào cầu may. Tôi bước ra, nhìn thấy tôi, Cám liền mách mẹ nhưng dì ghẻ không tin, bĩu môi nói “Con nỡm! Chuông khánh còn chẳng ăn ai, nữa là mảnh chĩnh vứt ngoài bờ tre!”,tôi chỉ lặng lẽ thử giày. Chân tôi đặt vào hài vừa như in. Vì chính chiếc giày này là của tôi. Tôi mở khăn lấy chiếc hài còn lại đi vào. Hai chiếc giống nhau như đúc. Lính hầu hò reo, vui mừng báo với vua. Lập tức, vua sai đoàn thị nữ rước tôi về cung và phong tôi làm hoàng hậu. Tôi xin phép về giúp dì và em sửa soạn cỗ cúng trong ngày giỗ cha. Thấy tôi được làm hoàng hậu, hai người ghen ghét nhưng cố giấu,tôi không biết rằng dì bảo tôi trèo cau, lấy một buồng để cúng cha rồi đẩy tôi đi vào cái chết. Tôi vừa leo lên đến ngọn thì dì chặt gốc. Cau đổ, tôi ngã xuống ao chết đuối. Dì ghẻ lấy quần áo của tôi cho Cám mặc rồi đưa vào cung nói dối vua rằng tôi chẳng may đã chết, nay cho em gái thay thế. Thế rồi linh hồn tôi hóa thân vào thành chim vàng anh, suốt ngày quanh quẩn ở vườn ngự uyển. Tôi muốn ở bên nhà vua vì suốt ngày chỉ thấy nhà vua đang ủ ê, buồn bã, thấy tôi cứ quanh quẩn bên cạnh, nhà vua bảo “Vàng ảnh vàng anh, có phải vợ anh, chui vào tay áo!”. Tôi âu yếm đậu lên vai rồi rúc vào tay áo nhà vua. Cám tức giận, về nhà mách dì ghẻ,cùng lúc đó nhân lúc nhà vua đi vắng, mẹ con Cám bắt tôi làm thịt rồi vứt lông ra vườn. Không thấy bóng dáng vàng anh, vua hỏi thì Cám nói dối “Thiếp có mang, thèm ăn thịt chim nên trộm phép bệ hạ đã giết ăn thịt mất rồi”. Nhà vua giận lắm nhưng không nói gì. Ngày hôm sau, từ đám lông chim tôi hóa thân vào hai cây xoan đào thật đẹp. Khi nhà vua đi dạo trong vườn, cây xòe cành lá che đầu vua, giống như hai cái lọng. Vua thấy vậy sai lính hầu mắc võng vào giữa hai thân cây rồi chiều chiều ra nằm đong đưa hóng mát. Cám lại đem chuyện ấy mách mẹ, lúc này Dì ghẻ xúi Cám sai thợ chặt hai cây xoan đào rồi nói là đóng khung cửi để dệt áo cho vua. Khi biến thành khung cửi tôi thầm nói cho Cám nghe “Cót ca cót két, Lấy tranh chồng chị, Chị khoét mắt ra!” Cám hoảng hốt mách với mẹ, dì ghẻ bảo hãy đốt khung cửi thành tro rồi đem đổ thật xa. Cám liền làm theo, nhưng từ đống tro bỗng mọc lên một cây thị cao lớn, cành lá xanh tươi. Đến mùa, cây thị ra nhiều hoa mà chỉ đậu có mỗi một quả. Tôi đã ở trong quả thị bấy lâu mà không biết rồi sẽ như thế nào. Một hôm, bà lão hàng nước ở gần đấy đi ngang qua, ngửi thấy mùi thơm bèn ngẩng lên nhìn rồi giơ miệng bị ra, lẩm bẩm “Thị ơi thị rụng bị bà. Bà để bà ngửi chứ bà không ăn”. Thấy bà cụ hiền lành, nhân hậu, tôi liền rụng xuống. Những lúc bà lão đi chợ hoặc vắng nhà, tôi từ quả thị bước ra, lén dọn dẹp nhà cửa, nấu sẵn cơm cho bà lão. Bà lão lấy làm lạ, cố ý tìm ra sự thật. Một lần, vờ đi chợ được một lúc thì bà lão quay lại, nấp sau cánh cửa nhà. Thấy tôi đang làm việc, bà chạy lại ôm chầm lấy tôi rồi xé nát vỏ quả thị. Từ đó,Tôi giúp bà gói bánh, nấu nước, têm trầu để bà ngồi bán hàng. Một hôm, vua ghé vào quán nước. Nhìn thấy mấy miếng trầu têm cánh phượng, người ấy hỏi ai têm, bà lão đáp là con gái mình têm. Tôi đứng nép sau bức mành, nghe rõ câu chuyện và nhận ra nhà vua. Nhà vua năn nỉ bà lão đưa con gái ra cho mình xem mặt. Tôi vừa xuất hiện, nhà vua đã nhận ra ngay, bèn bảo bà lão thuật lại sự tình, rồi ra lệnh cho lính hầu mang kiệu rước tôi và bà lão về cung. Tôi mừng và hạnh phúc lắm vì duyên phận vợ chồng không dễ dàng gì có được,xa cách bao lâu lại về với nhau. Cám thấy tôi vẫn còn sống mà lại trắng đẹp hơn xưa nên Cám băn khoăn tự hỏi vì sao. Tôi bày cho Cám tắm với nước sôi thì sẽ đẹp. Cám hí hửng làm theo, Cám không biết là nước sôi có thể làm bỏng và nó lập tức chết. Dì ghẻ thấy vậy kinh hoàng, cũng lăn đùng ra mà chết. Từ đó,tôi sống hạnh phúc bên nhà vua,không có ai có thể ngăn cản được tình yêu và cuộc sống của chúng tôi nữa. Hóa thân thành Tấm kể lại câu chuyện – Mẫu 8 Trong kho tàng văn học dân gian có rất nhiều tác phẩm hay, li kì và hấp dẫn; trong đó phải kể đến truyện cổ tích Tấm Cám. Tôi đặc biệt ấn tượng với nhân vật Tấm và nghị lực phi thường của cô. Sau đây để các bạn hình dung thật rõ nét và chân thực về cô gái có số phận hẩm hiu đó, tôi sẽ đặt mình vào nhân vật Tấm để kể lại cuộc đời bấp bênh và vô vàn sóng gió của cô. Đầu tiên – và cũng là nỗi bất hạnh lớn nhất, đưa tôi vào vòng xoáy của sự đau khổ bất hạnh do mẹ con Cám tạo ra. Năm tôi 6 tuổi thì mẹ mất, bố lấy vợ mới và không bao lâu sau bố tôi cũng trúng phong hàn và qua đời. Tôi phải ở cùng mụ dì ghẻ và con gái của mụ là Cám, kém tôi một tuổi rưỡi. Bản thân Cám không xấu nhưng mụ dì ghẻ lại rất cay nghiệt, mụ ta bắt tôi phải làm việc từ sáng sớm cho đến tối mịt, ngày nào cũng như ngày nào tôi phải “dậy sớm hơn gà, ngủ muộn hơn chó” thả sức cho mụ dì ghẻ đánh đập, hành hạ. Có một lần mụ dì ghẻ bảo tôi với Cám đi bắt tép, ai bắt được nhiều sẽ được thưởng yếm đỏ. Do tôi đã quen với công việc đồng áng nên chỉ cần khoắng khoắng mấy cái là đã đầy giỏ. Còn Cám thì cứ đủng đỉnh và chưa bắt được con nào, đến chiều tối tôi và Cám đi về. Tôi liếc nhìn thấy giỏ của Cám có rất ít thế nên rất sướng, cười thầm là” chắc chắn phen này yếm đỏ sẽ thuộc về ta”. Cám thấy giỏ của tôi đầy ắp nên cũng hoảng hoảng bèn bảo tôi gội đầu để kẻo bị dì ghẻ mắng, tôi tin ngay. Lúc lên thì đã thấy Cám trút hết tép vào giỏ của nó rồi chạy về, thấy thế tôi bật khóc và không thể tin Cám lại đê tiện bỉ ổi như vậy. Chợt có một luồng khói màu trắng thoảng qua và Bụt hiện ra và bảo tôi con cá nhỏ nhỏ trong giỏ là cá bống và dặn về chăn cho bống ăn uống đàng hoàng tử tế. Có một lần dì ghẻ lừa tôi đi chăn trâu ở xa rồi giết thịt bống, tôi đau xót khi thấy bống chết và đem chôn xương bống xuống dưới chân giường. Mấy tháng sau nhà vua mở hội, tôi lấy quần áo giày dép và xe cộ ra từ các lọ ở chân giường, sau hội tôi thử giày thành công và được vua đưa vào cung làm hoàng hậu. Tuy đã giàu sang phú quý dưới một người trên triệu người nhưng tôi vẫn không quên ngày giỗ cha và về nhà thì bị mụ dì ghẻ thích sát và đưa Cám vào cung. Xác của tôi hoá thành chim vàng anh bay vào cung nhưng bị mụ dì ghẻ và Cám giết thịt và vứt lông chim ra ngoài vườn. Từ đống lông chim đó tôi lại hoá thân làm cây xoan đào rồi bị Cám chặt cây làm khung cửi thì tôi chửi và hăm dọa móc mắt Cám nên bị mẹ con mụ dì ghẻ đốt đi, đổ tro đi thật xa. Tôi lại hoá thân làm cây thị, cây thị của tôi chỉ có một quả, một hôm có một bà lão đến xin quả thị, biết là người tốt nên tôi nhằm chuẩn chuẩn rơi đúng vào bị của bà lão. Ngày ngày chờ bà lão đi chợ tôi mới bước ra từ vỏ thị để làm việc nhà giúp bà lão, tuy làm việc như osin nhưng tôi rất vui vì được giúp bà lão. Sau đó có một hôm bà lão quay lại giữa chừng xé vỏ thị và không cho tôi chui vào nữa, tôi giúp bà cụ têm trầu bán hàng nước. Và cuối cùng cái ngày đó đã đến – cái ngày định mệnh kéo tôi ra khỏi vòng xoáy khổ hạnh – nhà vua đi chơi đến ăn trầu ở quán bà lão, thấy trầu têm đẹp quá nên vua đòi gặp tôi, phu thê trùng phùng thật là cảm động. Sau đó tôi từ giã bà lão rồi trở về cùng. Qua những việc làm xấu xa của mẹ con Cám cho thấy chúng là những kẻ xấu cần phải xoá bỏ trong nhân gian, tôi xui Cám xuống hố rồi đổ nước sôi cho nó chết sau đó làm nước mắm cho dì ghẻ ăn sau đó dì ghẻ biết và lăn đùng ra chết. Hóa thân thành Tấm kể lại câu chuyện – Mẫu 9 Tôi tên là Tấm. Mẹ mất sớm, cha tôi ở vậy được hơn một năm thì lấy vợ kế. Dì ghẻ sinh đứa con gái, đặt tên là Cám. Khi tôi vừa tròn mười lăm tuổi thì cha tôi qua đời. Vốn rất ghét tôi nên mọi việc lớn nhỏ trong nhà, dì ghẻ đổ cả lên đầu tôi. Chăn trâu, cấy lúa, xay thóc, giã gạo… vừa xong việc này dì bắt làm ngay việc khác; trong khi đó, Cám được rong chơi. Cậy thế mẹ, Cám thường mắng mỏ buộc tôi phải hầu hạ nó. Thui thủi một thân một mình, tôi buồn khổ lắm, nhưng chỉ biết khóc thầm. Một hôm, dì ghẻ bảo “Sáng nay hai đứa ra đồng mò tép. Đứa nào bắt được đầy giỏ, ta sẽ thưởng cho cái yếm đào!”. Nghe lời dì nói, tôi mừng thầm và tự nhủ sẽ cố gắng hết sức để đoạt được phần thưởng quý giá mà cô gái nào cũng mơ ước. Tôi và Cám mang giỏ cùng đi. Chẳng ngại vất vả, bẩn thỉu, tôi lội xuống ruộng, xuống mương hì hục mò, còn Cám thì cứ nhởn nhơ. Lúc mặt trời đã lên cao, giỏ của tôi đã gần đầy. Tôi rửa chân tay qua loa rồi lên bờ ngồi nghỉ. Bỗng Cám đến gần bảo “Chị Tấm ơi chị Tấm! Đầu chị lấm, chị hụp cho sâu, kẻo về mẹ mắng”. Tưởng thật, tôi lội xuống ao gội đầu thật kĩ. Xong xuôi, tôi vui vẻ hỏi “Cám ơi! Em xem giùm chị đã sạch chưa?”. Không một tiếng trả lời. Tôi ngẩng nhìn bốn phía, chẳng thấy Cám đâu, chỉ có chiếc giỏ của tôi nằm lăn lốc bên vệ cỏ. Tôi mở ra xem, trong giỏ rỗng không. Thì ra Cám đã lừa để trút hết giỏ tép của tôi, mang về nhà trước. Vừa tức giận, vừa tủi thân, tôi ôm mặt khóc. Bỗng nhiên, có một giọng nói trầm ấm vang bên tai tôi “Vì sao cháu khóc?”. Tôi ngẩng lên nhìn, trước mặt tôi, Bụt hiện ra giữa một vầng hào quang lấp lánh. Tôi thuật lại đầu đuôi câu chuyện, Bụt ân cần bảo “Cháu xem kĩ lại trong giỏ có còn sót con cá nào chăng!”. Tôi ghé mắt nhìn vào thì thấy một con cá bống bé xíu nằm dưới đáy giỏ. Theo lời Bụt dặn, tôi đem con cá bống ấy về thả xuống giếng, mỗi ngày bớt một ít cơm để nuôi nó. Mỗi lần cho ăn, tôi lại gọi bống bằng câu Bụt dạy Bống bống bang bang, Lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta, Chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người. Bống ngoi lên mặt nước, đớp những hạt cơm mà tôi rắc xuống. Từ đó, tôi và cá bống trở thành bạn thân. Cá bống ngày một lớn lên trông thấy. Để ý thấy tôi sau bữa cơm chiều thường ra giếng gánh nước, dì ghẻ sinh nghi, sai Cám đi rình. Cám nấp sau bụi cây, nghe tôi gọi bống bèn nhẩm theo cho thuộc rồi về kể cho mẹ nghe. Đến tối, dì ghẻ bảo tôi – Con ơi con! Làng đã bắt đầu cấm đồng rồi đấy. Mai con đi chăn trâu phải chăn đồng xa, chớ chăn đồng nhà, làng bắt mất trâu. Tôi vâng lời, sáng hôm sau dẫn trâu đi ăn cỏ thật xa. Ở nhà, Cám bắt chước tôi gọi bống. Nghe đúng câu hát, bống ngoi lên thì bị dì ghẻ chực sẵn, bắt làm thịt. Đến chiều, tôi dắt trâu về. Theo lệ thường, ăn xong tôi lại giấu cơm trong thùng gánh nước đem ra cho bống. Tôi gọi mãi, gọi mãi mà chẳng thấy bống đâu. Chỉ có một cục máu đỏ tươi nổi lên mặt nước. Tôi òa khóc. Bụt hiện lên hỏi “Làm sao con khóc?”. Tôi kể sự tình cho Bụt nghe, Bụt bảo “Con bống của con đã bị người ta ăn thịt mất rồi. Thôi, con hãy nín đi rồi tìm nhặt lấy xương nó, kiếm bốn cái lọ bỏ vào, đem chôn dưới bốn chân giường con nằm”. Tôi tìm khắp xó vườn, góc sân mà không thấy gì cả. Tự nhiên, một con gà cất tiếng “Cục ta cục tác! Cho ta nắm thóc, ta bới xương cho!”. Tôi lấy nắm thóc ném cho gà. Gà chạy vào bới đống tro bếp một lúc thì tìm thấy xương bống. Tôi nhặt bỏ vào bốn chiếc lọ nhỏ, chôn dưới bốn chân giường đúng như lời Bụt dặn. Tết đến, xuân về, nhà vua mở hội trong mấy ngày đêm. Già trẻ, trai gái nô nức đi xem hội. Mọi người ăn mặc đẹp đẽ, dập dìu tuôn về kinh thành như nước chảy. Mẹ con Cám cũng sắm sửa quần áo mớ ba mớ bảy, háo hức đi trẩy hội. Thấy tôi cũng muốn đi, dì ghẻ hậm hực nguýt dài. Chẳng biết nghĩ sao, dì lấy một đấu gạo trộn lẫn với một đấu thóc rồi bảo “Mày hãy nhặt cho xong chỗ gạo này rồi đi đâu hãy đi, đừng có bỏ dở. Tao về mà không có gạo thổi cơm là tao đánh đó!” Hóa thân thành Tấm kể lại câu chuyện – Mẫu 10 Sinh và lớn lên trong một ra đình nghèo khó, mẹ tôi mất sớm tôi phải ở với dì ghẻ cùng con gái của dì là Cám. Tôi tên là Tấm. Mọi chuyện trong nhà toàn do tôi làm, quần quật suốt ngày không lúc nào ngơi tay. Một hôm nọ khi mà dì ghẻ bảo tôi và Cám rằng “Sáng nay hai đứa ra đổng mò tép, Đứa nào bắt được đầy giỏ, ta sẽ thưởng cho cái yếm đào”. Và thế là tôi mải miết suốt buổi hi vọng nhận được món quà này. Còn Cám lại nhởn nhơ chơi, đến khi đã đầy giỏ tôm cá Cám bảo đầu tôi bị bẩn nên mách tôi cúi đầu xuống dòng nước để gội cho sạch. Nhưng khi tôi lên bờ thì Cám đã trút hết tôm cá của tôi mà về nhận phần thưởng. Tủi thân quá tôi ôm mặt khóc rồi Bụt hiện lên, tôi kể lại đầu đuôi câu chuyện cho Bụt nghe và Bụt nói tìm kỹ xem trong giỏ còn gì không? Tôi thấy một con cá bống nhỏ. Bụt dặn tôi mang về thả xuống giếng và hàng ngày mang cơm cho bống ăn với lời Bụt dạy hãy gọi bống Bống bống bang bang, Lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta, Chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người. Mỗi lần nghe tôi gọi bống ngoi lên mặt nước ăn cơm tôi cho. Và con cá bống ngày một lớn lên trông thấy. Và đã để ý thấy tôi sau bữa cơm chiều thường ra giếng gánh nước, dì ghẻ lúc đó sinh nghi, sai Cám đi rình. Cám đã thật khôn khéo khi nấp sau bụi cây, nghe tôi gọi bống bèn nhẩm theo cho thuộc rồi về kể cho mẹ nghe. Đến tối, dì ghẻ bảo tôi -Con ơi con! Làng đã bắt đầu cấm đồng rồi đấy. Mai con đi chăn trâu phải chăn đồng xa, chớ chăn đồng nhà, làng bắt mất trâu. Tôi nghe theo và khi dắt trâu về thì bống đã bị người ta ăn thịt. Tôi òa khóc nức nở thế rồi Bụt hiện lên hỏi rằng “Làm sao con khóc?”. Và rồi tôi lại kể sự tình cho Bụt nghe, Bụt bảo tôi rằng “Con bống của con đã bị người ta ăn thịt mất rồi, con nín đi rồi tìm nhặt lấy xương nó, kiếm bốn cái lọ bỏ vào, đem chôn dưới bốn chân giường con nằm”. Tôi nghe theo Bụt và tìm xương bống mãi không thấy may được sự trợ giúp của con gà trống thì tôi đã tìm được xương bống và làm y như lời Bụt dặn. Ở làng đang có hội, ai ai cũng đi, thấy được tôi mong đi hội thì dì ghẻ lấy hai đấu một gạo một thóc mà trộn vào với nhau, bắt tôi nhặt xong mới được đi. Tôi ôm mặt khóc, may thay một đàn chim sẻ xuống giúp tôi nhặt nên tôi mới có thể đi hội. Nhưng tôi lại chẳng có quần áo mới để đi, buồn quá tôi lại khóc thì lúc này Bụt hiện lên và bảo tôi đi đào 4 cái lọ xương bống trước đây lên. Tôi nghe theo và ôi có biết bao thứ đi dự hội tôi cầm. Đó là một bộ váy lụa đẹp, rồi một đôi hài vừa như in vậy, có cả một con ngựa và bộ yên cương xinh xắn tôi mừng rỡ và đi hội ngay. Trong lúc vội quá tôi làm rơi mất một chiếc hài ở đâu không biết nữa. Khi mà chiếc kiệu vàng của nhà vua vừa đến chỗ lội thì hai con voi dẫn đầu không chịu đi, cứ cắm ngà xuống đất và kêu rống lên. Và như đoán biết có sự lạ, nhà vua sai quân lính thử tìm xem. Họ cũng đã nhặt được chiếc hài thêu của tôi, vội trình nhà vua. Lúc này đây thì nhà vua như đã cầm chiếc hài lên, ngắm nghía mãi rồi buột miệng khen ngợi rằng “Chiếc hài xinh quá! Người đi hài này hẳn phải là một trang tuyệt sắc!”. Lúc này bỗng nhà vua ra lệnh cho tất cả đàn bà, con gái thử hài và tuyên bố ai đi vừa thì sẽ cưới làm hoàng hậu. Và cảnh đám hội như lại càng náo nhiệt. Các bà, các cô già trẻ như đã chen nhau đến chỗ thử hài nhưng không ai đi vừa. Mẹ con Cám cũng vào cầu may nhưng không một ai vừa chân cả. Cho đến lúc tôi bước ra thử, nhìn thấy tôi, Cám thấy vậy liền mách mẹ nhưng dì ghẻ không tin, bĩu môi nói lời cay đắng “Con nỡm! Chuông khánh còn chẳng ăn ai, nữa là mảnh chĩnh vứt ngoài bờ tre!”. Và chiếc hài tôi thử vừa in, và đây là hài của tôi, tôi lại rút chiếc hài còn lại ra trong con mắt của sự ngỡ ngàng của mọi người. Và lúc này đây thì tôi được sống sung sướng, hạnh phúc bên nhà vua trẻ. Và khi đến ngày giỗ cha, tôi xin phép về giúp dì và em sửa soạn cỗ cúng. Và mụ dì ghẻ thấy tôi được làm hoàng hậu, hai người ghen ghét nhưng cố giấu. Dì cũng đã bảo tôi trèo cau, lấy một buồng để cúng cha. Tôi vừa leo lên đến ngọn thì dì chặt gốc. Chặt cau, cau đổ, tôi ngã xuống ao chết đuối. Dì ghẻ lúc này lại lấy quần áo của tôi cho Cám mặc rồi đưa vào cung nói dối vua rằng tôi chẳng may đã chết, nay cho em gái thay thế tôi. Và lúc đó hồn tôi biến thành chim vàng anh, và tôi cứ suốt ngày quanh quẩn ở vườn ngự uyển mà nhìn chồng tôi. Cử thấy Cám giặt áo cho vua, đem ra phơi ở bờ rào, tôi hót rằng “Phơi áo chồng tao, thì phơi bằng sào, chớ phơi bờ rào, rách áo chồng tao!”. Khi nhắc nhở xong tôi bay thẳng vào cung, đậu ở cửa sổ. Nhà vua đang ủ ê, buồn bã, chắc như là người cũng đang nhớ thương người vợ bạc mệnh. Thấy tôi cứ quanh quẩn bên cạnh, nhà vua bảo rằng “Vàng ảnh vàng anh, có phải vợ anh, chui vào tay áo!”. Tôi như lại yêu và âu yếm đậu lên vai rồi rúc vào tay áo nhà vua. Một chiếc lổng được làm bằng vàng cho tôi ở. Nhà vua cứ suốt ngày quấn quýt bên tôi, chẳng hỏi han gì đến Cám cả. Nhân lúc nhà vua đi vắng, thì lúc đó hai mẹ con Cám bắt tôi làm thịt rồi vứt lông ra vườn. Khi về thấy mất vàng anh, vua hỏi thì Cám đặt điều nói dối mà tâu “Thiếp có mang, thèm ăn thịt chim nên trộm phép bệ hạ đã giết ăn thịt mất rồi”. Nhà vua giận lắm nhưng không nói gì. Cho đến ngày hôm sau, từ đám lông chim mọc lên hai cây xoan đào thật đẹp. Và cho đên khi nhà vua đi dạo trong vườn, cây xòe cành lá che đầu vua, giống như hai cái lọng. Vua thấy vậy, liền đã sai lính hầu mắc võng vào giữa hai thân cây rồi chiều chiều ra nằm đong đưa hóng mát và cũng chẳng nói chuyện với Cám. Lúc này Cám lại đem chuyện ấy mách mẹ. Nhân một hôm gió bão, khi mà dì ghẻ xúi nó sai thợ chặt hai cây xoan đào rồi nói là đóng khung cửi để dệt áo cho vua mặc. Và thêm một lần nữa hồn tôi nhập vào khung cửi nên mỗi lần Cám ngồi vào dệt, khung cửi lại phát ra tiếng kêu đầy đe dọa là Cót ca cót két, Lấy tranh chồng chị, Chị khoét mắt ra! Cám lúc này đây đã rất hoảng hồn mách với mẹ, dì ghẻ bảo hãy đốt khung cửi thành tro rồi đem đổ thật xa. Cám làm theo, nhưng lại cũng từ đống tro bỗng mọc lên một cây thị cao lớn, cành lá xanh tươi. Và khi đã đến mùa, cây thị ra nhiều hoa mà chỉ đậu có mỗi một quả. Và lúc này đây hồn tôi náu trong quả thị vàng thơm ấy. Một hôm, có một bà lão hàng nước ở gần đấy đi ngang qua, bà như đã ngửi thấy mùi thơm bèn ngẩng lên nhìn rồi giơ miệng bị ra, lẩm bẩm rằng -Thị ơi thị rụng bị để bà ngửi chứ bà không ăn. Lúc đó thì ngay lập tức trái thị liền rụng xuống. Bà lão như mừng rỡ, vui mừng mang về cất vào buồng, thỉnh thoảng bà lại đem ra ngắm nghía. Và có những lúc bà lão đi chợ hoặc vắng nhà, thì tôi cũng đã từ quả thị bước ra, dọn dẹp nhà cửa, nấu sẵn cơm dẻo canh ngon cho bà lão khi đi chợ về Bà lão lấy làm lạ lắm và một hôm bà cố ý tìm ra sự thật. Một lần, bà giả vờ đi chợ được một lúc thì bà lão quay lại Tôi như lúc này lại như đang lúi húi làm việc nhà như mọi khỉ thì bà lão bước vào, ôm chầm lấy tôi rồi xé nát vỏ quả thị. Từ đó, bà lão cũng như đã coi tôi như con gái. Tôi cũng đã giúp bà gói bánh, nấu nước, têm trầu để bà ngồi bán hàng. Ít lâu sau, một hôm có người đàn ông trẻ là vua đi vi hành ghé vào quán nước. Nhìn thấy mấy miếng trầu cánh phượng, người ấy như bàng hoàng và hỏi ai têm, bà lão đáp là con gái mình têm. Lúc này đây tôi đứng nép sau bức mành, nghe rõ câu chuyện và nhận ra nhà vua. Nhà vua như đã cố năn nỉ bà lão đưa con gái ra cho mình xem mặt. Tôi bước ra thấy tôi xuất hiện, nhà vua đã nhận ra ngay, bèn bảo bà lão thuật lại sự tình, rồi nhà vua đã ra lệnh cho lính hầu mang kiệu rước tôi về cung. Mẹ con Cám thấy vậy thì hết sức sợ hãi và lo lắng. Cám đã lân la hỏi tôi làm thế nào để trẻ đẹp được như thế, tôi lại bảo muốn đẹp thì tôi sẽ giúp cho. Tôi sai quân hầu nấu một nồi nước sôi, rồi bảo Cám đứng xuống hố. Cám bằng lòng. Lính đổ nước sôi vào hố, Cám chết. Và lúc đó dì ghẻ thấy vậy kinh hoàng, cũng lăn đùng ra mà chết. Tôi được sống yên ổn hạnh phúc bên nhà vua. Và dường như chính tình cảm vợ chồng lại càng thắm thiết, mặn nồng hơn trước. Hóa thân thành Tấm kể lại câu chuyện – Mẫu 11 Bây giờ đã là hoàng hậu hạnh phúc nhất cung đình nhưng mọi người vẫn quen gọi tôi là cô Tấm như ngày nào Nhớ lại những gì đã qua tôi không khỏi kinh sợ. Cuộc đời tôi ba chìm bảy nổi, chín lênh đênh cũng bởi tại mẹ con nhà Cám luôn chú tâm làm hại. Tôi còn nhớ, vào một ngày gần Tết, khí trời vẫn còn lạnh. Con Cám như mè nheo suốt ngày đòi mẹ nó một cái yếm thắm. Tôi cũng mơ một món vật như thế nhưng có bao giờ điều đó lại đến với tôi cơ chứ? Mụ dì ghẻ đưa cho hai chị em chúng tôi hai cái giỏ và nói. – Tụi bây đi bắt tôm bắt tép về đây làm thức ăn. Ai bắt được nhiều tao sẽ thưởng cho cái yếm đỏ – Mụ giơ chiếc yếm đỏ thắm ra chói lóa cả mắt. Rồi mụ gọi con gái lại nhỏ to với nó vài điều gì không rõ. Ra cái đầm đầu làng, tôi thì lo bắt và đã được một giỏ gần đầy. Con Cám sợ lạnh nên nó xuống nước một chút rồi ngồi trên bờ co ro nhìn tôi ngụp lặn lên xuống. Sắp về nó có nói với tôi “Chị Tấm ơi chị Tấm đầu chị lấm chị ngụp cho sâu kẻo về mẹ mắng”. Khi tôi ngoi đầu lên, thì con Cám đã đỏ hết con tôm tép cua tôi mà chạy về già tôi. Tôi ngồi khóc. Bụt hiện lên nói với tôi về nuôi con cá bống còn lại trong giỏ. Hằng ngày tôi lén đem cơm ra giếng cho Bống ăn với câu hát mà Bụt dạy cho “Bống bống bang bang, lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người”. Tôi lầm lũi ra đi mà tình cảm điều chẳng lành. Chiều về, vừa cài then chuồng trâu tôi đã đem cơm ra cho bống. Tôi hát khản cả giọng nhưng không thấy bống mà chỉ thấy một cục máu đỏ bầm nổi lên. Trời ơi tôi khóc như mưa như gió. Bụt lại hiện lên an ủi tôi và nói với tôi hãy tìm xương bống bỏ vào bốn chiếc lọ chôn ở bốn chân giường. Nhờ gà trống giúp tôi đã làm đúng lời Bụt dặn. Thấm thoắt thế mà một mùa xuân nữa lại đến. Mẹ con nhà Cám mặc yếm đỏ xúng xính trong bộ quần áo sang trọng đi dự hội. Tôi khâu vội một chiếc yếm rách định đi, nhưng mụ dì ghẻ đã đặt trước mặt một thúng đầy thóc và gạo bảo tôi với giọng ngọt ngào. – Con nhặt thóc giùm cho dì đi rồi hãy đi chơi. Con Cám lườm tôi một cái rồi cả hai nhập vào tiếng cười nói vui vẻ của đoàn người dự hội. Nhặt mỏi cả tay mà chẳng được bao nhiêu, tôi òa khóc. Bụt hiện lên nói Con đào bốn lọ lên sẽ có quần áo đẹp để đi dự hội, còn thúng thóc để đó cho chim sẻ nhặt giúp cho. Tôi không ngờ mình lại được trang phục đẹp thế. Ngoài quần áo đẹp còn có một con ngựa trắng như tuyết. Tôi lên đường ai cũng tấm tắc ngỡ là hoàng hậu. Khi qua chiếc cầu nhỏ, tôi đánh rơi một chiếc hài. Quân lính nhà vua vớt được, vua kinh ngạc trước chiếc hài kỳ lạ với ra điều kiện là ai ướm vừa chiếc giày thì vua lấy làm vợ. Dĩ nhiên tôi được hạnh phúc đó. Chao ôi, thật sung sướng trào nước mắt khi không từ một con bé nhà quê bỗng trở thành vợ của Vua. Lại một năm nữa lại đến tôi về làm giỗ cha. Tôi tự tay mình hái cau để têm trầu trước bàn thờ, Thế nhưng, mụ dì ghẻ đã chặt cau và tôi ngã xuống ao. Hồn tôi nhập vào chim vàng anh bay ngang và lạ thay tôi vẫn sống trong con chim bé nhỏ ấy. Hôm ấy tôi đã bay về đến cung vua, thấy Cám đang giặt áo cho Vua. Tôi biết Cám đã vào thế chị nó vào làm Hoàng Hậu. Tôi hát “Giặt áo chồng tao thì giặt cho sạch, giặt mà không sạch tôi rạch mặt ra”. Vua nghe thấy tôi liền nói “Vàng ảnh vàng anh có phải vợ anh chui vào tay áo”. Lập tức bay vào lòng vua. Và từ đó tôi được Vua chăm sóc. Nhưng một đêm Cám thò tay vào chuồng bóp cổ tôi một cách tàn nhẫn. Nó ăn thịt tôi rồi vứt lông ra vườn. Tôi lại được hóa thân mọc thành hai cây xoan tươi tốt. Vua hằng ngày mắc võng nằm ngủ dưới bóng mát của tôi. Con Cám biết vậy, nó sai người chặt cây và biến tôi thành khung cửi, tôi giận quá mỗi lần nó dệt vải tôi lại nghiến răng “Kẽo cà kẽo kẹt, lấy tranh chồng chị chị khoét mắt ra”. Lần này thì, nó đốt tôi ra tro rồi đổ tận đường cái. Bụt lại cho tôi hóa thân thành cây thị. Và đến mùa thị thì chỉ ra một trái thơm nức. Bụt cho tôi giấu mình trong đó. Một hôm, tôi nghe câu hát của một bà lão bán nước “thị ơi thị thị rụng bị bà, bà đem bà ngửi chứ bà không ăn”. Hẳn bà già sẽ ngạc nhiên khi thấy tôi rơi đúng vào bị của bà. Thấy tội nghiệp bà lão côi cút lại tốt bụng, hằng ngày tôi làm cơm tươm tất cho cụ xong tôi lại chui vào vỏ thị. Nhưng một hôm khi đang nấu cơm bất ngờ bà cụ đẩy cửa vào ôm chầm lấy tôi và xé tan vỏ thị. Từ đó tôi sống với bà lão như mẹ con. Một hôm thấy bà cụ dẫn chồng tôi đến. Sở dĩ biết được vì vua nhận ra miếng trầu cánh phượng mà tôi hay tiêm cho vua ăn. Vợ chồng gặp nhau mừng mừng, tủi tủi. Vua sai ngay quân lính rước tôi về cung. Con cám không hề biết xấu hổ mà nó cứ theo tôi nhờ tôi làm cho nó cũng đẹp như tôi. Giận quá tôi bảo nó đúng trong một cái hố rồi tôi sai người dội cho nó chết. Xong quân lính còn làm mắm gửi về cho mẹ đẻ Cám. Nghe đâu mụ ăn gần hết thịt thì mới thấy đầu lâu con mụ nằm ở đáy chĩnh. Mụ uất lên lăn đùng ra chết. Thực ra thì cả hai mẹ con chúng chết là rất xứng đáng, Chúng ăn ở quá thất đức. Cũng may có Bụt nếu không tôi chết từ rất lâu rồi. Hóa thân thành Tấm kể lại câu chuyện – Mẫu 12 Giờ đây tôi đã được sống yên ổn bên nhà vua. Để được hưởng cuộc sống yên bình, hạnh phúc như hiện tại tôi đã phải nỗ lực chiến đấu không ngừng để chống lại cái xấu, cái ác, mà trực tiếp ở đây là mẹ con Cám. Tôi và Cám vốn là hai chị em cùng cha khác mẹ. Mẹ tôi là chính thất vợ cả còn mẹ Cám chỉ là vợ lẽ. Cha tôi vốn yêu thương mẹ và tôi hơn hết thảy, bởi vậy mẹ con nhà Cám đã đem lòng ghen ghét hai mẹ con tôi. Mẹ tôi mất sớm, bố tôi không lâu sau qua đời, ngày bố qua đời cũng là ngày chấm dứt cuộc sống êm đẹp, hạnh phúc của tôi. Tôi ở cùng dì ghẻ và Cám, đồng thời cũng bắt đầu quãng thời gian cực khổ, bị đày ải cả về thể xác và tinh thần. Từ nhỏ cho tới khi tôi trưởng thành, mọi việc trong gia đình dì ghẻ đều bắt tôi làm hết. Tôi quần quật làm suốt ngày, không có lúc nào ngơi tay, ban ngày thì chăn trâu, gánh nước, thái khoai, băm bèo cho lợn gà ăn, tôi đến sau giờ cơm tối tôi còn phải xay lúa giã gạo. Cứ triền miên như vậy, hết năm này qua năm khác, mà mẹ con Cám không hề giúp tôi lấy một lần. Tôi còn nhớ lần ấy đang quét sân, thì dì ghẻ bỗng gọi tôi và Cám vào và bảo hai chị em đi bắt tép, ai bắt được đầy mang về trước sẽ được thưởng một chiếc yếm đỏ. Nghe vậy tôi vui lắm, đó là chiếc yếm mà tôi hằng ao ước bấy lâu nay, tôi nhanh chóng lấy giỏ chạy ra ngoài đồng, Cám cũng tung tẩy chạy theo phía sau tôi. Tôi nhặt thoăn thoắt, chẳng mấy chốc tép đã đầy giỏ. Tôi định chạy về, thì Cám gọi giật tôi lại và bảo – Chị Tấm ơi, chị Tấm! Đầu chị lấm, chị hụp cho sâu, kẻo về dì mắng. Tin lời Cám, tôi xuống ao, hụp xuống thật sâu cho sạch sẽ. Nhưng nào ngờ khi tôi lên bờ thi cả giỏ tép đã biến mất. Bấy giờ tôi mới biết mình bị lừa. Ấm ức và tức giận nhưng tôi chẳng biết làm sao. Bởi dì ghẻ cũng đã dung túng cho con mình và trao thưởng cho Cám. Tôi ngồi bệt xuống bờ cỏ mà khóc nức nở, khóc cho số phận bất hạnh, khóc cho việc bị đối xử bất công. Đúng lúc ấy tôi thấy trước mắt hiện ra một luồng khói trắng, một ông già râu tóc bạc phơ, cất giọng hiền từ hỏi tôi – Con làm sao lại khóc? Tôi nghẹn ngào kể hết sự tình cho bụt nghe. Nghe xong bụt bảo tôi xem lại trong giỏ còn gì không, thì tôi phát hiện vẫn còn một con cá bống. Tôi đem bống về nuôi, từ đó bống trở thành bạn của tôi. Mỗi bữa cơm tôi ăn bớt đi một nửa dành phần cho bống. Bao nhiêu nỗi uất ức, tôi đều đem đến kể cho bống để vơi bớt nỗi lòng. Nhưng chẳng được bao lâu mẹ con Cám lại lừa tôi đi chăn đồng xa để giết chết bống, điều này tôi chỉ biết cho đến khi Bụt hiện lên nói với tôi. Về đến nhà chỉ còn cục máu nổi lên, tôi uất nghẹn, khóc không thành tiếng, tôi thương bống vô cùng, sao mẹ con họ lại đang tâm giết chết một sinh linh nhỏ bé chỉ vì ghét tôi. Nghe lời bụt dặn tôi đem xương bống bỏ vào lọ đem chôn ở bốn chân giường. Thời gian cứ thế trôi qua, cho đến một ngày nhà vua mở hội, tôi cũng như bao cô gái khác hứng khởi chuẩn bị đi hội. Nhưng đúng ngày hôm ấy, dì ghẻ đem gạo trộn với thóc bắt tôi nhặt riêng hai thứ ấy mới được xem hội. Tôi ấm ức vô cùng và hiểu rằng dì ghẻ không muốn tôi đi. Tôi vừa nhặt vừa khóc, bụt hiện lên và giúp đỡ tôi, đàn chim sà xuống nhặt thóc ra thóc, gạo ra gạo. và nghe lời bụt dặn tôi đào bốn chân giường lấy váy áo mới để mặc dự hội. Mọi thứ vừa như in, tôi hạnh phúc lắm. Nhưng chẳng may hôm đi hội ấy tôi đánh rơi chiếc giày, tìm mãi mà không thấy. Trong đám hội hôm ấy còn diễn ra lễ thử giày, tôi cũng chen vai đến thử và thật kì lạ khi đến gần thì chiếc giày kia chính là giày của tôi, đôi chân tôi vừa khít chiếc giày đó, hợp với cái còn lại tạo thành một đôi. Và cũng nhờ vậy tôi trở thành hoàng hậu, cuộc đời tôi bước sang một trang mới. Nhưng cuộc đời tôi vẫn tiếp tục gặp nhiều sóng gió. Không lâu sau đó là ngày giỗ của cha, tôi về nhà làm giỗ. Khi trèo lên cây cau tôi bị dì ghẻ chặt cây, tôi ngã xuống và chết, Cám thay tôi vào cung chung sống với nhà vua. Tôi không chịu khuất phục, bấy lâu nay họ đã đàn áp tôi, tôi bỏ qua, nhưng lần này cướp cả mạng sống tôi nhất quyết không thể bỏ qua. Tôi phải giành lại quyền sống và hạnh phúc của mình. Tôi hóa thành chim vàng anh, bay vào cung vua, trước khi đến cung vua tôi đến chỗ Tấm cảnh cáo Phơi áo chồng tao, phơi lao phơi sào, chớ phơi bờ rào, rách áo chồng tao. Rồi tôi bay đến cung vua, tiếng hót của tôi làm nhà vua mê đắm, vua yêu thương tôi lắm, sai người làm cái lồng vàng để tôi có thể ngày ngày bên cạnh ngài. Nhưng Cám tiếp tục hãm hại giết chết tôi, tôi hóa thành cây xoan đào, nhà vua lại mắc võng ngày ngày nằm dưới bóng cây xanh là tôi. Sự độc của mẹ con Cám quả không có giới hạn, chúng lại chặt xoan đào, làm thành khung cửi, khiến cho vua không được ở bên cạnh tôi. Hôm ấy trong lúc Cám dệt vải tôi liền cảnh cáo Cám Cót ca cót két/ lấy tranh chồng chị/ Chị khoét mắt ra. Nghe thấy vậy, Cảm hoảng sợ vứt tôi đi thật xa. Từ đống cây đó tôi tiếp tục vươn mình thành cây thị, rồi quả thị thơm tho tỏa hương khắp nơi. Một bà lão đi qua đã khấn Thị ơi thị, rụng vào bị bà bà đem bà ngửi, chứ bà không ăn. Tôi rụng xuống và về ở cùng bà lão nghèo lương thiện. Ngày ngày, bà lão đi làm tôi ở nhà quét dọn, không lâu sau bà phát hiện ra bí mật và xé vỏ quả thị, tôi sống với bà như hai mẹ con. Một hôm, tôi đang ở trong nhà thấy mẹ vào gọi ra có người gặp. Tôi ra và mừng rỡ khi biết đó là nhà vua, chàng đã nhận ra tôi qua những miếng trầu têm cánh phượng. Tôi từ biệt bà lão và về hoàng cung chung sống với nhà vua. Về mẹ con nhà Cám đã bị tôi trừng trị thích đáng. Vậy là trải qua bao nhiêu khó khăn, tôi cũng đã được hưởng hạnh phúc mà tôi vốn được hưởng. Cuộc đời này luôn rất công bằng, khi làm điều thiện, sống lương thiện chắc chắn bạn sẽ gặp may mắn hạnh phúc. Còn làm điều ác tất sẽ gặp quả báo. Hóa thân thành Tấm kể lại câu chuyện – Mẫu 13 Tôi và Cám là hai chị em cùng cha khác mẹ. Hai chị em suýt soát tuổi nhau. Mẹ tôi sớm đã qua đời. Sau đó mấy năm thì cha tôi cũng chết. Tôi ở với dì ghẻ là mẹ của Cám. Dì ghẻ là người rất cay nghiệt. Hằng ngày, Tôi phải làm lụng vất vả, hết chăn trâu, gánh nước, đến thái khoai, vớt bèo; đêm lại còn xay lúa giã gạo mà không hết việc. Trong khi đó thì Cám được mẹ nuông chiều, được ăn trắng mặc trơn, suốt ngày quanh quẩn ở nhà, không phải làm việc nặng. Tôi và Cám là hai chị em cùng cha khác mẹ. Hai chị em suýt soát tuổi nhau. Mẹ tôi sớm đã qua đời. Sau đó mấy năm thì cha tôi cũng chết. Tôi ở với dì ghẻ là mẹ của Cám. Dì ghẻ là người rất cay nghiệt. Hằng ngày, Tôi phải làm lụng vất vả, hết chăn trâu, gánh nước, đến thái khoai, vớt bèo; đêm lại còn xay lúa giã gạo mà không hết việc. Trong khi đó thì Cám được mẹ nuông chiều, được ăn trắng mặc trơn, suốt ngày quanh quẩn ở nhà, không phải làm việc nặng. Bởi được cưng chìu, lại rất lười biếng, Cám thường lừa dối tôi để được mẹ khen. Một lần dì hứa sẽ thưởng chiếc yếm đỏ cho ai bắt được nhiều cá tôm hơn. Tôi và Cám đều thích cái yếm ấy. Bởi Tôi nhờ mò cua bắt ốc đã quen nên chỉ một buổi là được đầy giỏ vừa cá vừa tép. Còn Cám thì đủng đỉnh dạo hết ruộng nọ sang ruộng kia, mãi đến chiều vẫn không được gì. Muốn cướp công, Cám đã lừa tôi lặn xuống ao sâu và trút sạch tép vào giỏ của mình. Lúc Tấm bước lên chỉ còn giỏ không, bèn ngồi xuống bưng mặt khóc hu hu. Bụt hiện lên hỏi sự tình, tôi kể đầu đuôi câu chuyện cho bụt nghe Thương tình, bụt bảo tôi đem con cá bống còn sót lại trong giỏ về thả xuống giếng mà nuôi. Mỗi bữa, đáng ăn ba bát thì con ăn hai, còn một đem thả xuống cho bống. Tôi không hiểu nuôi bống để làm gì nhưng có thêm bạn cũng vui. Tôi theo lời Bụt thả bống xuống giếng. Rồi từ hôm ấy trở đi, cứ sau bữa ăn, Tôi đều để dành cơm, giấu đưa ra cho bống. Không chỉ riêng gì Cám mà cả mụ dì ghẻ cũng ra tâm ngăn cản và hãm hại tôi hết lần này đến lần khác. Con bóng sau đó bị mẹ con mụ bắt giết thịt. Nhờ con gà chỉ, Tôi mới nhặt đủ bộ xương của bống vươn vãi trong bếp cất vào bỏ lọ và đem chôn dưới chân giường như lời Bụt dặn. Mất bống, Tôi buồn lắm Ít lâu sau, nhà vua mở hội trong mấy ngày đêm. Già trẻ trai gái các làng đều nô nức đi xem. Trên các nẻo đường, quần áo mớ ba mớ bảy dập dìu tuôn về kinh như nước chảy. Dì và Cám cũng sắm sửa quần áo đẹp để đi trẩy hội. Thấy Tôi cũng muốn đi, dì ghẻ nguýt dài khinh bỉ. Không muốn cho tôi đi, dì lấy một đấu gạo trộn lẫn với một đấu thóc, bảo tôi hãy nhặt xong cho dì chỗ gạo này rồi đi đâu hãy đi, đừng có bỏ dở; về không có gì để thổi cơm, dì đánh. Nói đoạn, hai mẹ con quần áo xúng xính lên đường. Tôi ngồi nhặt một lúc, thấy sốt ruột, nghĩ rằng không biết bao giờ mới nhặt xong, bèn ngồi khóc một mình. Bụt lại hiện lên, gọi đàn sẻ xuống nhặt hộ. Bụt còn chỉ tôi lấy quần áo từ những hủ đựng xương của bống ngày nào để đi dự hội. Cả ngựa và xe đều có đủ cả. Tôi mừng quá vội tắm rửa rồi thắng bộ vào, đoạn cưỡi lên ngựa mà đi. Ngựa phóng một chốc đã đến kinh đô. Nhưng khi phóng qua chỗ lội, Tôi đánh rơi một chiếc giày xuống nước, không kịp nhặt. Khi ngựa dừng lại ở đám hội, Tôi lấy khăn gói chiếc giày còn lại rồi chen vào biển người. Giữa buổi hội đông vui, bỗng người hầu nhà vua truyền chỉ nhà vua có nhặt được một chiếc giày thật xinh đẹp, ai ướm vừa sẽ trở thành vợ vua. Các cô gái ai cũng tranh nhau thử nhưng chẳng ai vừa cả. Cuối cùng, chỉ còn mình tôi, tôi lưỡng lự ướm thử. Dì ghẻ và Cám nhìn thấy thử giày bĩu môi ganh ghét. Nào ngờ chiếc giày vừa vặn chân tôi. Nhớ đến chiếc giày của mình bị mất ở chỗ lội, tôi bán tín bán nghi, lẽ nào là chiếc giày ấy? Tôi liền mở khăn lấy luôn chiếc thứ hai đi vào. Hai chiếc giày giống nhau như đúc. Bọn lính hầu hò reo vui mừng. Lập tức vua sai đoàn thị nữ rước tôi vào cung. Tôi bước lên kiệu trước con mắt ngạc nhiên và hằn học của mẹ con Cám. Khi trở thành hoàng hậu, sống trong cung gấm lụa là nhưng lòng tôi chẳng khi nào ngui nỗi nhớ quê nhà. Ngày giỗ cha, tôi xin nhà vua cho về làm giỗ cha tươm tất, đền ơn báo hiếu. Dì ghẻ và Cám vốn từ lâu đã ganh ghét, còn muốn cướp ngôi hậu của tôi, mưu đồ tìm cách hại chết tôi. Mụ dì ghẻ vội vàng lột quần áo của Tôi cho con mình mặc vào rồi đưa vào cung nói dối vua rằng Tôi không may bị rơi xuống ao chết đuối, nay đưa em vào để thế chị. Vua nghe xong, trong bụng không vui, nhưng vẫn không nói gì cả. Tôi chết oan ức, hồn hoá làm chim vàng anh rồi bay một mạch về kinh, đến vườn ngự. Thấy Cám đang giặt áo cho vua ở giếng, biết nó tính vụng về, tôi dừng lại trên một cành cây, cất tiếng bảo nó phải giặt phơi áo chồng cẩn thận rồi bay thẳng vào cùng đậu ở cửa sổ, bằng tiếng hót, cố làm cho nhà vua biết tôi là Tấm nhưng nhà vua chẳng thể nhân ra. Tôi vẫn kiên trì, vua đi đâu, chim bay đến đó. Thấy chim quyến luyến theo mình, vua bảo “– Vàng ảnh vàng anh, có phải vợ anh, chui vào tay áo”. Nghe lời, tôi liền bay vào tay áo nhà vua. Vua yêu quý tôi quên cả ăn ngủ. Vua sai làm một cái lồng bằng vàng cho chim ở. Từ đó, ngày đêm, vua chỉ mê mải với chim, không tưởng đến Cám nữa. Ghen tức với vàng anh, Cám vội về nhà mách mẹ đủ điều. Mẹ nó bảo cứ bắt chim làm thịt ăn rồi kiếm điều nói dối vua. Trở lại cung vua, Cám nhân lúc vua đi vắng, bắt chim làm thịt nấu ăn, rồi vứt lông chim ở ngoài vườn. Chưa thoát kiếp nhân sinh, những chiếc lông chim vàng anh ở vườn hoá ra hai cây xoan đào. Cây lớn nhanh như thổi, chẳng mấy chốc đã lớn cành cành lá, phủ bóng mát rượi trong vườn. Khi vua đi chơi vườn ngự, tôi khua khuẩy cành lá xuống che kín thành bóng tròn như hai cái lọng. Vua thấy cây đẹp rợp bóng, sai lính hầu mắc võng vào hai cây rồi nằm chơi hóng mát. Khi vua đi khỏi thì cành cây lại vươn thẳng trở lại. Từ đó, không ngày nào là vua không ra nằm hóng mát và quấn quýt bên tôi. Điều đó lại khiến Cám ghen tức, nó lại về mách mẹ và lập tức cho người chặt cây xoan đào làm khung tức giận nó, cứ mỗi khi nó ngồi dệt, tôi lại buông lời chửi rủa nó. Sợ hãi, nó lại về mách mẹ và đốt khung cửi, tro vứt ra ngoài đường xa hoàng cung để được yên tâm. Từ đống tro bên đường, tôi lại hóa thân thành một cây thị cao lớn, cành lá sum sê. Đến mùa, cây thị chỉ đậu được có một quả, nhưng mùi thơm ngát tỏa ra khắp nơi. Có bà lão hàng nước gần đó, một hôm đi qua dưới gốc, ngửi thấy mùi thơm phảng phát, ngẩng đầu nhìn lên, thấy quả thị trên cành cao, bèn giơ bị ra và xin thị rụng vào bị bà đẻ mang về ngửi thơm. Biết bà lão thật lòng, tôi rụng quả vào bị. Bà lão nâng niu đem về nhà cất trong buồng, thỉnh thoảng lại vào ngắm nghía và ngửi mùi thơm. Ngày nào bà lão cũng đi chợ vắng. Từ trong quả thị, tôi chui ra giúp bà quét dọn nhà cửa sạch sẽ, rồi đi vo gạo thổi cơm, hái ra ở vườn nấu canh. Xong việc, tôi lại thu hình bé nhỏ như cũ rồi chui vào vỏ thị. Lần nào đi chợ về, bà lão cũng thấy nhà cửa ngăn nắp, cơm ngon canh ngọt sẵn sàng thì lấy làm lạ. Chuyện lạ không thể giấu kín được lâu. Bà lão từ lau đã bán tín bán nghi có điều gì đó dị thường ở trong nhà nên một hôm bà giả vờ đi chợ, đến nửa đường lại lén trở về, rình ở bụi cây sau nhà. Trong khi đó, tôi từ quả thị chui ra rồi cũng làm các việc như mọi lần. Bà lão rón rén lại, nhìn vào khe cửa. Khi thấy một cô gái xinh đẹp thì bà mừng quá, bất thình lình xô cửa vào ôm choàng lấy Tôi, đoạn xé vụn vỏ thị. Từ đó, Tôi ở với bà. Hằng ngày Tôi giúp bà các việc thổi cơm, nấu nước, gói bánh, têm trầu để cho bà ngồi bán hàng. Một hôm vua đi chơi, ra khỏi hoàng cung. Thấy có quán nước bên đường sạch sẽ bèn ghé vào. Bà lão mang trầu nước dâng lên vua, lúc ấy tôi ở trong phòng vì e ngại. Thấy trầu têm cánh phượng, vua sực nhớ tới trầu tôi têm ngày trước cũng y như vậy, liền phán hỏi và muốn gặp người têm trầu. Bà lão gọi Tôi ra, Tôi vừa xuất hiện, vua nhận ra ngay vợ mình ngày trước, có phần trẻ đẹp hơn xưa. Vua mừng quá, bảo bà hàng nước kể lại sự tình, rồi truyền cho quân hầu đưa kiệu rước Tôi về cung. Cám thấy Tôi trở về được vua yêu thương như xưa thì nó không khỏi sợ hãi, suốt ngày u sầu. Tôi vì tình nghĩa chị em nên cung không nhắc lại chuyện xưa, lại còn cho gọi dì ghẻ vào cung để Cám có người trò chuyện. Thế nhưng, lòng người đa đoan, dì ghẻ và Cám dù đã được tôi tha thứ, khoan lượng nhưng vẫn chưa từ bỏ mưu đồ hãm hạm, cướp ngôi của tôi. Một hôm, Cám khẽ hỏi làm thế nào mà giữ được vẻ đẹp đến thế. Biết nó muốn trở nên xinh đẹp như tôi để mê dụ nhà vua, một lần nữa loại bỏ tôi. Tôi không đáp, chỉ hỏi lại có muốn đẹp không để chị giúp. Nghe tôi nói thế, nó mừng quá, bằng lòng ngay. Tôi sai quân hầu đào một cái hố sâu và đun một nồi nước sôi. Tất cả đã tươm tất, tôi bảo nó xuống hố rồi sai quân hầu dội nước sôi vào hố. Cám chết tức tưởi. Mụ dì ghẻ thấy vậy cũng lăn đùng ra chết… Từ đó, tôi sống hạnh phúc bên nhà vua, sinh nhiều hoàng tử và công chúa, không còn ai hãm hại tôi nữa. Việc trừng phạt mẹ con Cám tuy có phần nặng nề nhưng những con người bội bạc, lòng đầy dã tâm như thế nếu không trừng phạt thì quả thực không công bằng. Hóa thân thành Tấm kể lại câu chuyện – Mẫu 14 Hôm nay, bầu trời trong xanh, không khí mát mẻ tôi và hoàng thượng cùng nhau đi dạo bên hồ ngắm nhìn khung cảnh nhuộm vàng của tiết trời mùa thu. Bỗng từ đâu truyền đến tiếng kéo kẹt của khung cửi, bước chân tôi cứ thế bị tiếng kéo cửa dẫn lối đến một ngôi nhà nhỏ nơi ấy có một bà lão đang nhặt chỉ và bên cạnh là cô gái trẻ đang kéo cửi. Hình ảnh ấy làm tôi chững lại, tim nhói đau, từ đâu những hình ảnh năm ấy lại ùa về. Tôi tên là Tấm, cha bảo khi tôi sinh ra đã trắng ngần như hạt tấm nệm đã đặt tên tôi là Tấm, mong sau này tôi cũng sẽ xinh đẹp và có tâm hồn trắng ngần như hạt tấm. Mẹ tôi mất khi tôi còn nhỏ, cha tôi ở vậy được hơn một năm thì cha tôi lấy vợ kế. Dì ghẻ sinh được một cô con gái đặt tên là Cám. Cám được dì và cha tôi chăm sóc và nuông chiều hết mực. Đến năm tôi mười lăm tuổi, cha tôi vì bệnh nặng mà qua đời, từ đó tôi sống cùng dì ghẻ và Cám. Khi cha còn sống dì ghẻ luôn yêu thương chăm sóc tôi như con gái, nhưng sau khi Cám ra đời và cha tôi mất đi, dì không còn đối xử tốt với tôi như trước đây. Mẹ luôn giao cho tôi những phần việc nặng nhọc, vất vả nhất còn Cám thì ngày ngày được rong chơi. Từ sáng đến tối, tôi luôn phải tất bật với công việc lớn nhỏ trong nhà và việc đồng áng như cấy cày, chăn trâu, dã gạo, xay thóc … tôi thậm chí còn không có thời gian để rong chơi như bao đứa trẻ cùng tuổi trong làng. Cám thì luôn được dì bênh vực, bảo vệ, vì cậy thế mẹ, Cám thường mắng mỏ, sai bảo buộc tôi phải hầu hạ nó. Suốt ngày hết ra đồng, lại quanh quẩn với những công việc trong nhà, tôi không có lấy một người bạn để tâm sự, để trải nỗi lòng mình, nhiều lúc tôi chỉ biết khóc thầm một mình. Hôm đó, khi tôi đang chuẩn bị dắt trâu ra đồng, dì ghẻ liền gọi tôi và bảo “ Sáng nay con và em Cám ra đồng mò tép, đứa nào bắt được đầy giỏ, ta sẽ thưởng cho cái yếm đào”. Nghe dì nói, tôi vô cùng háo hức và thẩm nhủ sẽ cố hết sức để đạt được phần thưởng mà cô gái nào cũng mơ ước. Tôi cột châu cẩn thận vào chồng, lấy giỏ và cùng Cám ra đồng mò tép như lời dì sai bảo. Khi ra đến đồng, tôi không nề hà bùn đất, bẩn thỉu vội lội xuống ruộng chăm chỉ mò từng con tôm con tép một, lúc nào mệt quá ngước lên, tôi đều thấy Cám đang thoải mái hái hoa bắt bướm, nhởn nhơ rong chơi, cứ ngỡ Cám đã làm xong phần việc của mình tôi càng gắng sức làm cho nhanh và khẩn trương hơn. Lúc mặt trời đã lên cao, giỏ của tôi cùng đã đầy, tôi vội rửa chân tay qua loa rồi lên bờ chuẩn bị ra về. Bỗng Cám từ đâu chạy đến bảo tôi “ Chị Tấm ơi, chị Tấm! Đầu chị lấm, chị hụp cho sâu, kẻo về mẹ mắng”. Nghĩ Cám thật lòng quan tâm đến mình, tôi vội lội xuống ao gội đầu thật kỹ, rửa lại tay chân thật sạch. Xong xuôi, tôi vui vẻ hỏi “ Cám ơi, em xem giúp chị đã sạch chưa?”. Không một tiếng trả lời vang lên. Tôi vội chạy lên bờ, tìm kiếm xung quanh vẫn không thấy Cám đâu, tôi chạy đến bên cái giỏ tép của mình, thì chỉ thấy chiếc giỏ trống không nằm lăn lóc trên bờ ruộng. Tôi mở ra xem thật sự trong giỏ không còn một con tôm, con tép nào. Tôi bỗng nhận ra hóa ra mình đã bị Cám lừa để trút hết giỏ tép của tôi mang về nhà trước, bao nhiêu công sức của tôi bị cướp trắng một cách oan uổng. Bao nhiêu oan uổng, tủi nhục, bất công bấy lâu nay tôi phải chịu đựng cứ thế tuôn trào hòa vào những giọt nước mắt, tôi thật sự muốn vứt bỏ hết tất cả để thoát khỏi sự chèn ép, sự áp bức, sự bất công của mẹ con Cám dành cho mình mà đến với cha mẹ của mình. Khi ý nghĩ tiêu cực ấy lướt qua đầu tôi, bỗng có một giọng nói ôn nhu, hiền từ quanh quẩn bên tai tôi “ Vì sao con khóc?”. Tôi quệt vội những giọt nước mắt, trước mặt tôi lúc này, một ông lão với gương mặt hiền từ nhân hậu bao quanh là vầng hào quang lấp lánh. Tôi bị choáng ngợp trước quang cảnh trước mặt, bất giác hỏi “ Ông là ai ạ”. Ông lão điềm đạm trả lời “ Ta là bụt, đến giúp để giúp con, giờ con hãy kể cho ông nghe vì sao con khóc?”. Tôi kể lại cho ông đầu đuôi câu chuyện trong tiếng khóc nghẹn ngào, nghe xong bụt ân cần bảo “ Con đã xem kỹ trong giỏ xem còn sót lại con cá nào không chăng?” tôi với lấy cái giỏ ghé mắt nhìn vào thì thấy một con cá bông bé xíu nằm ở đáy giỏ, tôi vô cùng ngạc nhiên và cảm động, sau đó Bụt dặn tôi, đem con cá bống về nhà thả xuống giếng, mỗi ngày bớt một ý cơm để nuôi nó, khi nào cho ăn thì gọi bống bằng câu thần chú “ Bống bống bang bang, Lên ăn cơm vàng, cơm bạc nhà ta, Chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người” Tôi đem con cá bống về nhà,, làm đúng như những gì Bụt dặn, mang cá bống thả xuống cái giếng sau nhà, ngày ngày tôi bớt chút cơm cho cá bống. Mỗi lần tôi mang cơm cho bống ăn đều gọi bằng câu thần chú mà bụt dặn, cá bỗng bơi lên rất nhanh và đớp những hạt cơm mà tôi rắc xuống, tôi cảm thấy rất hạnh phúc vì từ giờ tôi đã có cá bống làm bạn chia sẻ những vui buồn, cá bống ngày càng lớn nhanh. Thấy tôi ngày ngày sau bữa cơm đều ra giếng gang nước, mẹ con Cám sinh nghi, nhiều lần gạn hỏi tôi, nhưng tôi đều trả lời qua loa cho xong chuyện, từ đó đợi mẹ con Cám không để ý tôi mới ra sau giếng mang cơm cho bống. Được một thời gian tưởng rằng mẹ con Cám đã hết nghi ngờ, nào ngờ rằng, một buổi tối trước hôm tôi mang trâu ra đồng, dì ghẻ gọi tôi vào và bảo “ Con ơi con! Làng ta dạo này hay mất châu, con chăn trâu nhớ chăn đồng xa chớ chăn đồng gần làng bắt mất trâu.” Sáng sớm hôm sau, vâng lời dì tôi dẫn châu sang cánh đồng xa gần lãng bên để chăn trâu. Ở nhà, Cám và mẹ lập mưu bắt cá bống của tôi, Cám bắt gọi bống theo đúng câu thần chú Bụt dặn tôi. Nghe đúng câu hát, bống ngoi lên và bị dì ghẻ chực sẵn bắt làm thịt. Thấy mặt trời sắp lặn, tôi dắt trâu về nhà. Theo thường lệ, ăn xong tôi lại mang cơm cho cá bống, tôi gọi mãi, gọi mãi chẳng thấy cá bống đâu chỉ thấy có cục máu đông nổi lên mặt nước, tôi vội tìm kiếm xung quanh, tìm mãi vẫn không thấy bống đâu. Tôi liền bật khóc, rồi từ đâu một làn khói trắng xuất hiện, Bụt từ lúc nào đã đứng ngay trước mặt tôi và ân cần hỏi “ Vì sao con khóc?”. Tôi kể lại mọi chuyện cho Bụt nghe, Bụt bảo “ Con bống của con bị người ta ăn thịt mất rồi. Thôi con hãy nín đi rồi tìm nhặt xương nó, kiếm bốn cái lọ bỏ vào rồi đem chôn dưới bốn chân giường con nằm”. Tôi rối rít cảm ơn Bụt, sau đó theo lời Bụt bảo tôi đi tìm quanh vườn, khắp xó nhà, góc sân cũng không thấy xương sống đâu cả, đang trong lúc tuyệt vọng, tự nhiên, một con gà cất tiếng “ Cục ta cục tác! Cho ta nắm thóc, ta bới xương cho!”. Nghe gà nói được tôi vô cùng ngạc nhiên đứng thẫn ra hồi lâu, rồi chạy vội vào trong bếp lấy thóc ở bục cho gà ăn. Gà chạy vào đống tro trong bếp một lúc thì bới ra được một đống xương. Tôi tìm bốn cái lọ và cho xương bống vào đó chôn tại bốn đầu giường tôi năm theo đúng lời Bụt dặn. Thời gian thấm thoát trôi, đến khi tết đến, xuân về, các cô gái ai cũng có quần áo mới để diện tết, mẹ con Cám cũng sắm sửa quần áo đi chơi tết, còn tôi phải ở nhà làm những công việc như mọi ngày, tuy có nhàn rỗi hơn những ngày thường nhưng tôi không có chỗ nào để đi chơi tết cả. Kể từ khi cha mất, họ hàng cũng dần chuyển sang làng khác sống, nên ở vùng quê này tôi không còn ai thân thích cả. Một hôm khi đang cắt cỏ ngoài đồng, tôi có nghe được mấy cô gái đồn nhau nhà vua sắp về đây vi hành và có mở hội mấy đêm cho dân làng vui xuân, tôi cũng không hy vọng sẽ được đi chơi hội nên vội quăng luôn nó ra khỏi đầu. Vài hôm sau làng tôi mở hội đón vua về vi hành, làng trên xóm dưới từ già trẻ, gái trai, ai ai cũng ăn mặc đẹp, đâu đâu cũng nghe thấy tiếng hò gọi nhau đi chảy hội, mẹ con Cám cũng không phải ngoại lệ, họ tất bật chuẩn bị quần áo từ tối hôm trước. Trong lòng tôi bỗng thấy háo hức, suy nghĩ muốn đi chơi hội của tôi đột nhiên mãnh liệt hơn bao giờ hết, nghĩ như vậy tôi vội vào trong phòng lấy bộ quần áo đẹp nhất của mình chuẩn bị để đi chơi hội. Ra đến cửa mẹ con Cám đã chờ sẵn tôi, Cám đứng chắn trước cửa lườm tôi một cái rồi quay lại nói với mẹ “ Mẹ ơi mẹ! Chị Tấm cũng muốn đi chơi hội kìa”. Nghe thấy thế, dì ghẻ tiến lại phía tôi và nói “Con muốn đi chơi hội hả, việc nhà đã làm xong hết chưa?” Tôi vội trả lời “Dạ, rồi ạ”. Dì gật đầu hài lòng và nói tiếp “ Được, quần áo thế này mà con muốn đi chơi hội sao để dì và em Cám sửa lại giúp con”. Vừa nói dứt lời hai mẹ con Cám tiến lại phía tôi và xé tan nát bộ quần áo của tôi mặc đi chơi hội, sau đó, dì vào trong bếp lấy ra một đấu gạo và thóc đổ vào nhau trộn đều lên và bảo “ Bao giờ nhặt xong chỗ gạo này đâu vào đấy rồi mới được đi nghe con, không được xót một hạt nghe con” Nói xong hai mẹ con Cám dắt nhau ra đi hội bỏ tôi lại một mình với nhà cửa ngổn ngang cùng một mẹt thóc và gạo trộn lẫn vào nhau. Tôi ngồi bệt xuống nền nhà, nghĩ đến đời mình, những tủi nhục vừa trải qua, không kìm được cảm xúc tôi bỗng bật khóc, lần này bụt lại hiện lên và bảo “ Làm sao con khóc?”. Tôi kể lại tường tận sự tình cho bụt nghe. Bụt bảo tôi mang mẹt ra giữa sân rồi gọi một đàn chim sẻ xuống nhặt giúp cho, tôi sợ chim ăn hết thóc thì bụt dạy Con hãy bảo chúng “ Rặt rặt xuống nhặt giúp tao. Đừng ăn của tao, rồi tao trả công”. Chúng sẽ không ăn của con đâu. Tôi định đi hội, thì bỗng nhận ra quần áo của mình đã bị mẹ con Cám xé tan nát, Bụt liền bảo tôi hãy đào bốn chiếc lọ đựng xương bống ở dưới chân giường lên, con sẽ có những gì mình muốn. Nghe lời bụt tôi vào đào bốn chiếc lọ lên quả nhiên điều kỳ diệu đã xảy ra Lọ đầu tiên có một bộ váy áo tứ thân, một cái yếm đào và chiếc khan nhiễu vô cùng đẹp và khác hẳn so với những cái tôi từng thấy. Lọ thứ hai có một đôi hài thêu hoa vô cùng xinh xắn đi vừa in với chân tôi. Lọ thứ ba có một con ngựa phi ra. Lọ cuối cùng có một bộ yên cương vô cùng xinh xắn. Tôi mừng rỡ vô cùng, vội cảm tạ Bụt rồi đi tắm sạch sẽ, mặc bộ quần áo mới, khi sửa soạn xong cũng là lúc chim sẻ giúp tôi nhặt thóc gạo xong tôi lấy một nắm thóc thưởng cho chim sẻ, sau đó cưỡi lên lưng ngựa và phi thẳng đến hội. Lúc đi qua cầu, do không cẩn thận tôi bị đánh rơi chiếc hài xuống nước, định lội xuống tìm những thoáng chốc đã không thấy nó đâu nữa, không kịp nữa tôi đành bỏ lại chiếc hài và phi ngựa tiếp đến hội. Đến đám hội, tôi dừng ngựa, lấy khan gói kĩ chiếc hài còn lại rồi chen vào biển người. Sau này khi về làm vợ vua rồi, tôi có hỏi chàng, khi xưa vì sao chàng lại nhặt được chiếc hài của tôi, thì nhà vua nói “ Hôm đó, kiệu vàng của ta không hiểu sao vừa đến chỗ cầu thì hai con voi dẫn đầu không chịu đi tiếp nữa, cứ cắm ngà xuống đất và kêu rống lên. Biết rõ sự lạ, ta liền sai quân lính thử tìm xem có gì lạ ở dưới suối. Quân lính của ta nhặt được một chiếc hài thêu hoa vô cùng tinh xảo, họ trình lên ta. Khi cầm chiếc hài lên ta như bị cuốn hút vào, trong lòng trộm nghĩ “ Chiếc hài xinh thế này, người đi hài chắc hẳn phải là một tuyệt sắc giai nhân” nghĩ đến vậy ta càng tò mò và muốn tìm ra chủ nhân của chiếc hài”. Nghe chàng kể lại sự tình như vậy tôi nghĩ đây chắc hẳn là ý trời. Lần đầu tiên được đi chơi hội làm tôi rất háo hức, ai ai cũng nhìn tôi, khi tôi thấy một đám đông đam xúm lại, vì tò mò nên tôi lại gần thì được biết vua ra lệnh cho tất cả đàn bà, con gái ai đi vừa chiếc hài thì sẽ cưới làm hoàng hậu. Đám hội, ai cũng háo hức, các bà, các cô chen nhau đến chỗ thử hài nhưng không ai mang vừa. Mẹ con Cám cũng vào cầu may nhưng không được. Lúc tôi bước ra thử, nhìn thấy tôi, Cám liền mách mẹ nhưng dì ghẻ không tin, bĩu môi nói Con nỡm! Chuông khánh còn chẳng ăn ai, nữa là mảnh chĩnh mảnh chai ngoài bờ!” Chân tôi đặt vào hài vừa in. Tôi mở khăn lấy chiếc hài còn lại ra đi vào. Tôi được nhà vua đem kiệu rước vào cung, ai ai cũng nhìn tôi với ánh mắt ngưỡng mộ, chỉ có mẹ con Cám nhìn tôi thù hằn và vô cùng tức giận. Sau khi vào cùng tôi được vua yêu chiều, tôi sống vô cùng thoải mái, sung sướng và hạnh phúc bên nhà vua. Đến ngày giỗ cha, tôi xin phép về giúp dì và em sửa soạn cỗ cúng. Thấy tôi được làm hoàng hậu, hai người ghen ghét nhưng cố giấu. Dì bảo tôi trèo cau, lấy một buồng để cúng cha. Tôi vừa leo lên đến ngọn thì dì chặt gốc. Cau đổ, tôi ngã xuống ao chết đuối. Dì ghẻ lấy quần áo của tôi cho Cám mặc rồi đưa vào cung nói dối vua rằng tôi chẳng may đã chết, nay cho em gái thay thế. Hồn tôi biến thành chim vàng anh, suốt ngày quanh quẩn ở vườn ngự uyển. Cám giặt áo cho vua, đem ra phơi ở bờ rào, tôi hót “Phơi áo chổng chị, thì phơi bằng sào, chớ phơi bờ rào, rách áo chồng chị!”. Rồi tôi bay thẳng vào cung, đậu ở cửa sổ. Nhà vua đang ủ ê, buồn bã, chắc là nhớ thương người vợ bạc mệnh. Thấy tôi cứ quanh quẩn bên cạnh, nhà vua bảo “Vàng ảnh vàng anh, có phải vợ anh, chui vào tay áo!”. Tôi âu yếm đậu lên vai rồi rúc vào tay áo nhà vua. Vua làm cho tôi một chiếc lồng bằng vàng để ở. Nhà vua suốt ngày quấn quýt bên tôi, chẳng hỏi han gì đến Cám. Cám về kể với mẹ và bày mưu hãm hại tôi lần nữa. Nhân lúc nhà vua đi vắng, mẹ con Cám bắt tôi làm thịt rồi vứt lông ra vườn. Thấy mất vàng anh, vua hỏi thì Cám đặt điều nói dối “Thiếp có mang, thèm ăn thịt chim nên trộm phép bệ hạ đã giết ăn thịt mất rồi”. Nhà vua giận lắm nhưng không nói gì. Ngày hôm sau, từ đám lông chim mọc lên hai cây xoan đào thật đẹp. Khi nhà vua đi dạo trong vườn, cây xòe cành lá che đầu vua, giống như hai cái lọng. Vua thấy vậy sai lính hầu mắc võng vào giữa hai thân cây rồi chiều chiều ra nằm đong đưa hóng mát. Cám lại đem chuyện ấy mách mẹ. Nhân một hôm gió bão, dì ghẻ xúi Cám sai thợ chặt hai cây xoan đào rồi nói là đóng khung cửi để dệt áo cho vua. Hồn tôi nhập vào khung cửi nên mỗi lần Cám ngồi vào dệt, khung cửi lại phát ra tiếng kêu đầy đe dọa “Cót ca cót két, Lấy tranh chồng chị, Chị khoét mắt ra!” Cám hoảng hồn mách với mẹ, dì ghẻ bảo hãy đốt khung cửi thành tro rồi đem đổ thật xa. Cám làm theo, nhưng từ đống tro bỗng mọc lên một cây thị cao lớn, cành lá xanh tươi. Đến mùa, cây thị ra nhiều hoa mà chỉ đậu có mỗi một quả. Hồn tôi náu trong quả thị vàng thơm ấy. Một hôm, bà lão hàng nước ở gần đấy đi ngang qua, ngửi thấy mùi thơm bèn ngẩng lên nhìn rồi giơ miệng bị ra, lẩm bẩm “Thị ơi thị rụng bị bà. Bà để bà ngửi chứ bà không ăn.” Trái thị liền rụng xuống. Bà lão vui mừng mang về cất vào buồng, thỉnh thoảng lại đem ra ngắm nghía. Những lúc bà lão đi chợ hoặc vắng nhà, tôi từ quả thi bước ra, dọn dẹp nhà cửa, nấu sẵn cơm dẻo canh ngon cho bà lão. Bà lão lấy làm lạ, cố ý tìm ra sự thật. Một lần, vờ đi chợ được một lúc thì bà lão quay lại, tôi đang lúi húi làm việc nhà như mọi khỉ thì bà lão bước vào, ôm chầm lấy tôi rồi xé nát vỏ quả thị. Từ đó, bà lão coi tôi như con gái. Tôi giúp bà gói bánh, nấu nước, têm trầu để bà ngồi bán hàng. Ít lâu sau, một hôm có người đàn ông trẻ tuổi ghé vào quán nước. Nhìn thấy mấy miếng trầu cánh phượng, người ấy hỏi ai têm, bà lão đáp là con gái mình têm. Tôi đứng nép sau bức mành, nghe rõ câu chuyện và nhận ra nhà vua. Nhà vua năn nỉ bà lão đưa con gái ra cho mình xem mặt. Tôi vừa xuất hiện, nhà vua đã nhận ra ngay, bèn bảo bà lão thuật lại sự tình, rồi ra lệnh cho lính hầu mang kiệu rước tôi về cung. Mẹ con Cám thấy vậy thì hết sức sợ hãi van xin tôi tha lỗi, nể tình ngần ấy năm chúng sống, tôi tha cho hai mẹ con Cám về quê. Vài năm sau tôi nghe tin Cám không biết nghe ai bảo mà đun nước sôi để tắm nên chết, còn dì ghẻ tôi vì quá đau buồn nên cũng hóa được sống yên ổn hạnh phúc bên nhà vua. Tình cảm vợ chồng lại càng thắm thiết, mặn nồng hơn trước. Nhớ lại những chuyện đã qua, tôi ngẫm lại mới thấy lời cha dặn trước lúc ra đi quả không sai, cha bảo “ ở hiền mới gặp lành con ạ, qua cơn tai ương hạnh phúc sẽ đến”. Mọi thứ đến với tôi thật sự không dễ dàng gì vì vậy tôi sẽ luôn bảo vệ và trân trọng nó. Hóa thân thành Tấm kể lại câu chuyện – Mẫu 15 Cuộc đời ta có được như ngày hôm nay đã trải qua không biết bao gian khổ, thử thách. Ta là Tấm, cha mẹ ta mất sớm nên ta phải sống cùng dì ghẻ và đứa em gái cùng cha khác mẹ tên Cám. Hai mẹ con dì ghẻ là những người vô cùng hiểm ác, cay nghiệt, Cám được mẹ nuông chiều ăn chơi còn ta lại phải làm lụng vất vả ngày đêm. Cuộc đời ta luôn bị hãm hại hết lần này đến lần khác, từ việc đi bắt tôm tép bị Cám lừa lấy hết, đến chuyện giết cá bống của ta, không cho ta đi dự hội. Nhưng may thay cuộc đời ta luôn được Bụt che chở và giúp đỡ. Khi ta bị Cám lấy hết tôm tép, Bụt hiện lên cho con cá bống, ta nuôi cá dưới giếng, sau khi bị mẹ con cám thịt, ta nghe lời Bụt đem xương cá bỏ vào lọ chôn dưới bốn chân giường. Ngày đi dự hội, Bụt còn sai đàn chim sẻ xuống nhặt thóc gạo giúp ta, ta đào bốn hũ xương cá lên lại hóa thành lụa là gấm vóc, đôi giày và xe ngựa giúp ta đi trẩy hội. Lúc đi qua chỗ lội ta lỡ đánh rơi một chiếc giày xuống nước, ta không kịp nhặt nhưng vua đi ngang qua đã nhặt được, vua nói sẽ cưới ai đi vừa giày này làm hoàng hậu và chân ta đã vừa như in. Từ ngày ta vào cung vua, hai mẹ con dì ghẻ luôn ghen ghét đố kị, nhân ngày giỗ cha thấy ta về liền hãm hại ta nhằm thế chỗ hoàng hậu. Dì ghẻ sai ta trèo cây cau hái cau nhưng lại ở dưới chặt cây làm cây gãy ta ngã xuống sông chết còn Cám vào cung thế chỗ ta. Ta liền hóa thân thành chim vàng anh để ở bên cạnh hoàng thượng thì lại bị họ bắt làm thịt, ta hóa thành hai cây xoan đào cho vua mắc võng lại bị chặt làm khung cửi, rồi ta hóa thân vào khung cửi để oán trách Cám thì lại bị đem khung cửi đốt đi. Cuối cùng ta hóa thân thành một quả thị thơm trên cây, chờ bà lão đi qua ta rơi xuống ở với bà, hàng ngày giúp bà quét dọn thổi cơm, têm trầu cánh phượng cho bà bán nước. Một ngày vua đi qua nhìn thấy trầu ta làm liền muốn gặp mặt, hai vợ chồng nhờ đó mà tái ngộ. Sau bao gian truân sóng gió ta đã trở về với vị trí của mình, hai mẹ con Cám thấy ta về thì sợ hãi vô cùng nhưng vẫn không ngừng đố kị. Cô em Cám muốn xin ta bí quyết ngày càng trắng trẻo đẹp đẽ ta liền bày cách nhảy xuống hố sâu rồi tắm nước sôi, mụ dì ghẻ khi hay tin con gái chết cũng lăn đùng ra chết theo, đó là quả báo cho kẻ cả một đời hãm hại người tốt. Đăng bởi THPT Ngô Thì Nhậm Chuyên mục Giáo Dục Or you want a quick look Dàn ý Kể lại Chuyện người con gái Nam cũng giúp giải đáp những vấn đề sau đây Đóng vai Trương Sinh kể lại câu chuyện và bày tỏ niềm an hận ngắn nhất Đóng vai Trương Sinh kể lại Chuyện người con gái Nam Xương và bày tỏ niềm an hận Đóng vai Trương Sinh kể lại Chuyện người con gái Nam Xương với kết thúc mới Đóng vai Trương Sinh kể lại Chuyện người con gái Nam Xương có sự dụng miêu tả nói tâm Đóng vai Vũ Nương kể lại Chuyện người con gái Nam Xương Văn 9 đóng vai Trương Sinh kể lại câu chuyện hay nhất Thấy lời Trương Sinh kể lại nỗi oan của vợ Đóng vai Trương Sinh kể lại nỗi an hận của mình Hóa thân Trương Sinh kể lại Chuyện người con gái Nam Xương Văn mẫu lớp 9 Đóng vai Trương Sinh kể lại Chuyện người con gái Nam Xương gồm dàn ý, cùng 10 bài văn mẫu, giúp các em học sinh lớp 9 tích lũy thêm vốn từ, kể lại câu chuyện thật hay, thật cô đọng. Thông qua 10 bài văn mẫu này, học sinh có thể rèn luyện cách kể chuyện theo ngôi thứ nhất, phát huy sự sáng tạo của bản thân khi đóng vai nhân vật trong truyện giúp câu chuyện mang màu sắc mới lạ, hấp dẫn người đọc, người nghe. Vậy mời các em cùng theo dõi bài viết dưới đây của Traloitructuyen Đóng vai Trương Sinh kể lại Chuyện người con gái Nam Xương từ đầu đến việc trót đã qua rồi Đóng vai Trương Sinh kể lại Chuyện người con gái Nam Xương có sự dụng miêu ta nói tâm Kể lại Chuyện người con gái Nam Xương Hãy đóng vai Trương Sinh và kể lại câu chuyện và bày tỏ niềm an hận Đóng vai Trương Sinh kể lại Chuyện người con gái Nam Xương với kết thúc mới Đóng vai Vũ Nương để kể lại Chuyện người con gái Nam Xương Dàn ý Kể lại Chuyện người con gái Nam Xương Dàn ý Kể lại Chuyện người con gái Nam Xương I. Mở bài Trương Sinh giới thiệu về bản thân mình tên, gia cảnh, tính cách Trương Sinh dẫn dắt vào câu chuyện Có một câu chuyện làm tôi ân hận suốt đời, dù có chết tôi cũng không tha thứ cho bản thân. II. Thân bài 1. Quá trình kết hôn và chung sống với Vũ Nương Vợ tôi là Vũ Nương, xinh đẹp, đảm đang, khéo léo Chúng tôi chung sống với nhau rất hòa thuận, hạnh phúc, háo hức chờ đón đứa con đầu lòng. Đang trong thời gian mặn nồng, hạnh phúc, chiến tranh phi nghĩa xảy đến, tôi phải từ biệt mẹ già, vợ trẻ để đi chiến đấu. Chia tay vợ trong niềm lưu luyến, nhớ thương. Tôi xúc động nhất khoảnh khắc vợ rót chén rượu đưa tiễn tôi và nói nàng không cần vinh hoa phú quý, chỉ cần tôi được bình yên. 2. Thời gian xa nhà Được nghe những người hàng xóm kể lại Tôi đi được một tuần thì vợ sinh con trai đặt tên là Đản Mẹ tôi ở nhà vì quá thương nhớ tôi nên sinh bệnh Vợ tôi ở nhà chăm nom mẹ tôi ân cần, chu đáo, ai ai cũng phải công nhận sự hiền thảo đó Khi mẹ mất, vợ tôi khóc thương và lo liệu cho mẹ tôi được mồ yên mả đẹp. Tôi thầm tự hào và biết ơn vợ, tự nhủ với lòng sẽ yêu thương và trân trọng nàng suốt đời 3. Trương Sinh trở về và nghi oan cho vợ. Ba năm sau tôi trở về, trước sự ra đi của mẹ tôi đau đớn, xót xa vô cùng. Tôi định bế con trai ra mộ để cùng thắp nén hương cho mẹ, nhưng nó khóc lóc, không chịu nhận tôi, nói cha nó chỉ nín thin thít, đêm nào cũng đến Tính tôi đa nghi lại vội vàng nên vô cùng giận giữ, không để cho vợ thanh minh mà ngay lập tức đuổi đi. 4. Vũ Nương thanh minh, được giải oan và sự hối hận của chàng Trương. Trước cơn thịnh nộ của tôi, Vũ Nương hết lời giải thích, thanh minh, nàng hỏi tôi chuyện kia nhưng tôi cố tình không nói, tôi vẫn mắng nhiếc thậm tệ và đuổi đi mặc cho hàng xóm can ngăn Sau đó, vợ tôi tắm gội chay sạch, ra bến Hoàng Giang tự tử để chứng minh lòng thành. Dù vẫn còn rất giận nhưng biết tin nàng tự tử tôi cũng động lòng thương, vớt xác lên nhưng không thấy. Một đêm, nằm cùng bé Đản, bé chỉ tay lên chiếc bóng trên vách tường và nói đó là cha mình. Tôi bàng hoàng nhận ra nỗi oan tày đình của vợ. Tôi đau đớn, dằn vặt tự trách mình. Cạnh bến sông có người tên Phan Lang, vì được Linh phi dưới thủy cung đền ơn cứu mạng nên đã được cứu vớt trong một lần chạy giặc Minh. Ở dưới thủy cung, ông ta gặp lại vợ tôi. Nàng đã nhờ Phan Lang chuyển lời và chuyển kỉ vật đến tôi. Ban đầu không tin nhưng khi nhìn thấy vật cũ của vợ mới hốt hoảng tin theo. Hôm sau, tôi nghe theo lời dặn, lập đàn giải oan cho vợ, Vũ Nương hiện về đẹp lung linh. Tôi xúc động, nghẹn ngào gọi vợ, nàng chỉ thấp thoáng giữa nói vọng vào lời từ biệt tôi. Tôi đau đớn, ân hận, giày vò, vì những cơn ghen mù quáng của mình. III. Kết bài Trương Sinh tự rút ra cho mình bài học Vợ chồng phải biết yêu thương tôn trọng và đặt niềm tin ở nhau mới có hạnh phúc bền lâu Trương Sinh tự hứa với lòng sẽ ở vậy, chăm con thật tốt, bù đắp sai lầm. Kể lại Chuyện người con gái Nam Xương - Mẫu 1 Tôi tên là Trương Sinh, quê ở Nam Xương. Vợ tôi là Vũ Thị Thiết, một người con gái tính đã thùy mị nết na lại thêm tư dung tốt đẹp. Hai vợ chồng cùng mẹ tôi sống rất vui vẻ, hạnh phúc, hòa thuận bên nhau và đứa con đầu lòng của chúng tôi cũng sắp chào đời. Không may thay, chiến tranh xảy ra ngay khi ấy, binh lửa loạn lạc của cuộc nội chiến kéo dài và tôi bị gọi đi tòng quân. Khi nhận được lệnh, tôi chia tay với mẹ và vợ trong niềm xót xa, bâng khuâng và bồi hồi. Trước khi chia tay, mẹ tôi dặn dò kỹ càng - Con đi ra nơi binh mạc như thế thì phải biết giữ mình cho tốt. Đừng vì một chút công danh, lợi lộc mà để bản thân bị thương. Con phải nhớ như thế thì mẹ mới bớt được phần lo lắng. Tôi vâng lời mẹ dặn dò, nhận chén rượu tiễn biệt từ Vũ Nương. Nàng giãi bày với tôi Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong chàng đeo ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ… Chỉ xin ngày trở về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi. Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao. Rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến cho thiếp băn khoăn, mẹ chồng lo lắng. Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét gửi người ải xa. Trông liễu rủ bãi hoang lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú. Dù tin trông mỏi mòn cũng không có lấy một cánh hồng bay bổng. Nàng vừa dứt lời thì nước mắt tôi ứa ra. Tạm biệt mọi người trong gia đình, tôi lên đường ra trận. Tôi đi được ít hôm thì vợ tôi sinh con. Đó là một bé trai bụ bẫm, trắng trẻo và được Vũ Nương đặt tên là Đản. Chuyện vui chưa kéo dài được bao lâu thì tin dữ lại đến. Mẹ tôi vì quá nhớ và lo lắng cho tôi nơi trận mạc nên đã lâm bệnh nặng và không qua khỏi, mặc dù Vũ Nương đã hết sức thuốc thang, cúng bái. Một năm sau, chiến tranh kết thúc, tôi trở về với quê hương. Cảnh vật chẳng thay đổi là mấy. Khung cảnh vẫn vẹn nguyên như hồi tôi mới từ biệt gia đình ra đi tới nơi trận mạc mà thôi. Vừa về tới nhà thì tôi đã nghe tin là mẹ tôi mất. Tôi đau đớn và buồn bã vô cùng. Và buồn hơn khi không hiểu vì lý do gì mà bé Đản nhất quyết không nhận tôi là cha nó. Nhân cơ hội ra mộ thăm mẹ, tôi dẫn bé Đản theo. Ra tới mộ, mọi cảm xúc của tôi được đẩy lên tới đỉnh điểm, không kìm được nước mắt, tôi òa lên khóc nức nở như một đứa bé. Lúc đó, tôi quay sang gọi bé Đản. Nó tròn xoe mắt hỏi tôi - Ông cũng là cha tôi ư? Cha tôi trước khi chỉ nín thin thít, không nói câu nào. Tôi phải hỏi mãi mới biết hồi tôi đi vắng có một người đàn ông đêm nào cũng đến nhà tôi. Vì tính đa nghi hay ghen nên tôi phi thẳng về nhà và ngay lập tức quát mắng Vũ Nương. Tôi bỏ ngoài tai mọi lời phân trần, giải thích của nàng cũng như những lời biện minh của bà con hàng xóm. Và rồi, tôi đuổi Vũ Nương ra khỏi nhà. Vũ Nương ra bến Hoàng Giang rồi gieo mình xuống đó. May thay được Linh Phi cứu xuống làm cung nữ dưới long cung. Rồi nàng gặp được Phan Lang – người cùng làng với chúng tôi, và nàng gửi Phan lang cầm về một chiếc hoa vàng, tín vật nàng gửi lại cho tôi. Trong khi ấy, ở nhà, tôi mới biết được sự thật là người đàn ông kia chỉ là cái bóng của Vũ Nương mà thôi. Tôi đau đớn và chua xót vô cùng, nhưng lúc ấy hối hận thì đã quá muộn màng. Phan Lang gặp tôi, kể lại đầu đuôi câu chuyện và trao cho tôi chiếc hoa vàng kỷ vật kia. Sáng hôm sau, tôi lập đàn giải oan cho Vũ Nương bên bến sông. Nàng hiện về trong giây lát rồi biến mất. Tôi chìm vào trong thất vọng và tuyệt vọng. Chỉ vì tính đa nghi, hay ghen mà tôi đã làm mất một người vợ tốt vô ngần, tự tay phá vỡ đi cuộc sống vợ chồng hạnh phúc, bình yên, hòa thuận bấy lâu nay. Tôi ân hận lắm! Kể lại Chuyện người con gái Nam Xương - Mẫu 2 Trong cuộc đời mỗi một người, chắc hẳn ai cũng đã từng phạm phải những sai lầm. Tuy nhiên, sai lầm đó có ảnh hưởng gì đến cuộc sống hay không và cách ta đối diện với nó, sửa chữa nó như thế nào mới là quan trọng. Tôi đã từng mắc một sai lầm mà cho đến nay tôi vẫn không thể tha thứ cho chính mình được. Đó là việc tôi đã gây nên cái chết của vợ tôi. Nếu các bạn đã và đang có những hành động như tôi ngày đó, hãy sửa sai ngay khi còn có thể, bởi bây giờ tôi có hối hận cũng không kịp nữa rồi… Tôi tên là Trương Sinh. Cha tôi mất sớm nên tôi sống với mẹ. Chuyện xảy ra khi tôi bắt đầu đến tuổi cưới vợ, tôi có để ý một cô gái xinh đẹp, thùy mị và nết na tên là Vũ Thị Thiết. Thấy nàng vừa xinh đẹp, vừa hiền lành, tôi đã xin mẹ tôi một trăm lạng để cưới nàng về. Tôi đã không trân trọng nàng từ khi tôi dùng tiền để hỏi cưới cô ấy mà không hề quan tâm xem cô ấy có yêu mình hay không. Nhưng vợ tôi quả là một người phụ nữ vẹn toàn. Cưới nàng về, tôi và mẹ được chăm sóc chu đáo, cơm nước, nhà cửa lúc nào cũng tinh tươm. Ấy vậy mà tôi chẳng những không biết hạnh phúc với hiện tại mà còn đi ghen tuông với vợ những chuyện vụn vặt cỏn con, tôi không muốn một người đàn ông nào bén mảng đến bên vợ mình. Thế rồi cũng vài năm trôi qua, Vũ nương và tôi đón tin vui đầu tiên. Đó là gia đình sắp có thêm một thành viên mới, tôi sung sướng lắm! Nhưng ai ngờ đâu, chiến tranh lại đột ngột ập đến, tôi bắt buộc phải đi lính, để lại mẹ và vợ ở nhà. Trước lúc chia tay, vợ tôi có nói với tôi rằng “Chàng ra đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong chàng được đeo ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ. Chỉ xin ngày về mang theo hai chữ bình yên, thế là đủ.” Nghe được những lời từ vợ, tôi cảm thấy an lòng. Ở nhà, vợ tôi vẫn là một người vợ đảm đang, tháo vát và chu toàn. Chẳng lâu sau, con tôi ra đời, vợ tôi đặt tên cho con là Đản. Cả nhà ba mẹ con, bà cháu nương tựa lẫn nhau mà sống. Tôi ở chiến trường vẫn không nguôi nhớ về quê nhà, nhớ về mẹ, về vợ và cả về đứa con tôi chưa từng được một lần gặp mặt nữa. Nhưng rồi chuyện gì đến cũng sẽ đến, mẹ tôi già cả nên bị lâm bệnh nặng. Trước lúc bà qua đời, bà đã có lời trăn trối với vợ tôi - Ngắn dài có số, tươi héo bởi trời. Mẹ không phải là không muốn đợi chồng con trở về. Song lòng tham vô cùng mà vận trời khó tránh. Nước hết, chuông rền, số cùng khí kiệt. Một tấm thân tàn, nguy trong sớm tối, việc sống chết không khỏi phiền đến con. Chồng con nơi xa xôi, chưa biết sống chết thế nào, không thể về đền ơn được, sau này, trời xét lòng thành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn. Xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ. Cả đời mẹ tôi tần tảo nuôi dạy tôi nên người, đến lúc chết dù không được nhìn mặt con trai nhưng lại có một nàng dâu coi bà chẳng khác nào cha mẹ đẻ, bà cũng rất yên lòng. Nếu tôi có thể hiểu được vợ tôi như bà thì tốt biết mấy. Có thể mọi chuyện sẽ chẳng ra nông nỗi này! Vợ tôi lo tang ma cho mẹ thay tôi vô cùng chu đáo. Ai nấy đều cảm động trước tấm lòng của nàng. Rồi thời gian cũng trôi qua đi, chiến tranh tạm chấm dứt, tôi háo hức trở về với vợ con ở quê nhà. Hay tin mẹ đã mất, tôi đau buồn khôn xiết, liền đi ra mộ của mẹ ngay. Nhưng vì không biết đường, tôi để con trai tôi chỉ đường để cùng đi ra đó. Đến nơi, chẳng hiểu sao thằng bé cứ khóc, tôi mới dỗ dành con - Nín đi con, đừng khóc nữa! Cha về, bà đã mất, lòng cha buồn khổ lắm rồi! Vừa nói xong, nó đã hỏi lại tôi - Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít. Tôi ngạc nhiên lắm! Vợ tôi có người nào khác ngoài tôi ư? Nàng ta lại dám không chung thủy với chồng của mình ư? Tôi gặng hỏi con và biết được rằng có một người đàn ông đêm nào cũng đến, vợ tôi ngồi cũng ngồi, vợ tôi đứng cũng đứng, nhưng chưa bao giờ người đàn ông đó bế con tôi cả. Máu ghen tuông vốn có của tôi trỗi dậy, tôi liền về nhà, quát tháo ầm ĩ. Vợ tôi khóc, bảo rằng - Thiếp vốn con nhà nghèo khó, may được nương tựa nhà giàu. Vợ chồng sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm, giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn, từng đã nguôi lòng, ngõ liễu đường hoa, chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết như lời chàng nói. Dám xin chàng cho thiếp được bày tỏ, để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng nghi oan cho thiếp! Nhưng lúc đó tôi đâu có mảy may suy nghĩ đến đúng sai, nàng lại nói tiếp - Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng vì có cái thú vui nghi gia nghi thất. Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân con én lìa đàn, nước thẳm buồm xa, đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa? Trước những lời minh oan đau đáu, khẩn thiết ấy, tôi lại nhẫn tâm đuổi nàng đi mà không phân rõ đúng sai, tìm hiểu ngọn ngành. Tôi trách mình khi ấy quá đa nghi, vội vàng, để rồi vợ tôi phải tìm đến cái chết. Tôi không bao giờ quên những lời mà nàng nói trước khi trẫm mình xuống sông - Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám! Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, xin vào nước làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ. Vợ tôi đã phải chọn cách đau đớn nhất là tìm đến cái chết. Chỉ có cái chết mới có thể chứng minh cho sự trong sạch của nàng. Sau này, khi tôi bế con, thấy cái bóng ở trên tường, con tôi mới chỉ và bảo “Cha Đản đến rồi kìa”. Hóa ra, người tình của vợ tôi là cái bóng, vợ tôi muốn dỗ dành con, bớt đi sự cô đơn nên mới bảo đấy là cha đứa bé… Mà tôi lại không hề biết, lại đi trách mắng, lăng mạ, xỉ nhục và đuổi vợ đi, khiến cho vợ tôi phải chết, chết trong sự oan ức. Tôi đau lòng và dằn vặt bản thân mỗi khi nhớ lại chuyện này. Mãi sau, vợ tôi được Linh Phi – người cùng làng với cô ấy giải oan cho. Tôi thấy bóng hình vợ hiện về và bảo “Thiếp không thể trở về bên chàng và con được nữa…” Đó là câu nói khiến tôi ám ảnh và đau lòng nhất. Giờ đây, đã hai mươi năm trôi qua, tôi vẫn không thể nào quên được câu chuyện đó. Bi kịch mà chính tôi tạo ra khiến tôi muốn xám hối cả đời, sống đơn thân nuôi con trai khôn lớn. Tôi hiểu ra rằng, khi yêu một người thì cần phải có sự tin tưởng, cần phải đặt niềm tin vào người đó chứ đừng ghen tuông mù quáng. Nếu có chuyện gì xảy ra thì cần phải tìm hiểu thật kĩ trước khi làm gì bởi khi ta nóng giận có thể hành xử mất kiểm soát, dẫn đến hậu quả khôn lường. Các bạn, nếu ai đang trong một mối quan hệ tình yêu thì nên biết tôn trọng và thấu hiểu đối phương. Đừng ai như tôi, để ghen tuông làm mờ đôi mắt. Cuộc đời tôi đã không thể cứu vãn và sửa chữa được sai lầm, còn các bạn thì vẫn còn rất nhiều cơ hội. Hãy biết đối xử với người khác thật tốt và thận trọng trong từng hành động để không phải hối hận về bất cứ điều gì, các bạn nhé! Kể lại Chuyện người con gái Nam Xương - Mẫu 3 Tôi là Trương Sinh, con một nhà hào phú nức tiếng giàu có trong vùng. Từ nhỏ, tôi đã chẳng mặn mà gì với việc dùi mài kinh sử nên lúc lớn cũng chỉ sống dựa vào nếp nhà. Nhiều người nói tôi trăng hoa ong bướm nhưng tôi thì không nghĩ vậy, vì từ khi lớn lên đến giờ, tôi chỉ thích có mỗi một người đó là Vũ Thị Thiết người con gái ở Nam Xương, nhà nghèo nhưng nổi tiếng khắp nơi về nết na và tư dung tốt đẹp. Tôi thưa với mẹ. Tính ngày tháng tốt, mẹ sửa soạn trăm lạng vàng, sang nhà Vũ Nương xin cưới nàng cho tôi. Tuy là con nhà nghèo nhưng nàng rất “công dung ngôn hạnh”, vì vậy cuộc sống lứa đôi của chúng tôi vô cùng hạnh phúc. Nhưng “ngày vui ngắn chẳng tày gang”, chẳng bao lâu sau, đất nước có chiến tranh, tôi bị sung vào lính. Khi đó, Vũ Nương – vợ tôi đang mang thai đứa con đầu lòng. Ngày chia tay bịn rịn, lưu luyến đầy nước mắt. Tôi cúi đầu thương cảm nhận lời dạy bảo của mẹ già. Tôi đau đớn nghe những lời li biệt của Vũ Nương rồi lên đường ra nơi biên ải. Trong lòng vừa thương nhớ vợ con, vừa lo lắng cho mẹ già. Ở nơi chinh chiến, tôi không nguôi nhớ về ngôi nhà đơn sơ với mẹ già và người vợ trẻ. Mãi rồi cuộc chiến cũng chấm dứt, tôi được trở về quê. Vừa đặt chân đến nhà thì hay tin mẹ già đã mất, tôi vô cùng đau xót, tiếc thương. Đứa con trai – tên Đản – lúc ấy đã biết nói. Cảnh nhà heo hút, sầu thảm. Tôi bế con ra thăm mộ mẹ. Đứa con chưa bén hơi cha cứ quấy khóc hoài. Tôi cố gắng dỗ con – Nín đi con, đừng khóc. Cha về, bà mất, lòng cha buồn khổ lắm rồi. Đản ngây thơ hỏi lại tôi – Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói? Chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít. Tôi vô cùng ngạc nhiên khi nghe con nói thế, liền gạn hỏi thằng bé, đứa con nói – Trước đây có một người đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả. Nghe lời con trẻ, tôi vừa đau lòng vừa tức giận. Vậy ra vợ tôi là người đàn bà hư hỏng, trong lúc chồng đi chiến trường thì ở nhà lăng loàn với người đàn ông khác. Thế mà, ở nơi bom rơi đạn lạc, tôi đã quên cả mình để không ngừng nhớ tới nàng, mong ngày mong đêm để được về đoàn tụ với nàng. Về đến nhà, tôi la um lên cho hả giận. Vợ tôi đã hết lời thanh minh, hàng xóm đã hết lời khuyên giải, nhưng mặc, tôi đuổi Vũ Nương đi. Biết tôi không tin vào sự thật, nàng đau đớn ôm con lần cuối cùng rồi ra khỏi nhà. Chiều muộn hôm đó, tôi nghe tin nàng đã gieo mình xuống sông Hoàng Giang tự vẫn. Tuy vẫn giận nhưng tôi cũng mang lưới ra để vớt xác nàng nhưng vớt mãi suốt đêm cũng chẳng thấy đâu. Một đêm vắng vẻ, tôi ngồi ôm con bên ngọn đèn mới thắp, lòng buồn rầu nghĩ đến Vũ Nương. Bỗng thằng bé reo lên – Cha Đản lại đến kia kìa! Tôi vội hỏi đâu thì nó chỉ vào cái bóng của tôi trên tấm vách. Tôi chợt hiểu ra mọi chuyện. Trời ơi! Chính tôi đã giết vợ mình. Vợ tôi đã chết oan uổng vì sự hồ đồ, đa nghi, cả ghen, ích kỉ,… của chính tôi. Tôi hối hận quá. Nhưng muộn mất rồi. Chính tôi đã làm tôi mất vợ, làm bé Đản mất mẹ. Tôi ân hận quá nhưng muộn mất rồi, muộn mất rồi… Kể lại Chuyện người con gái Nam Xương - Mẫu 4 Thời gian qua nhanh như cơn gió thoảng, chỉ mới thoáng chốc đã hơn hai mươi năm trôi qua, thế nhưng, sự việc ấy vẫn cứ như mới xảy ra ngày hôm qua vậy. Đến tận bây giờ, nỗi hối hận vẫn chưa bao giờ nguôi ngoai trong lòng Trương Sinh tôi. Sự ghen tuông mù quáng, sự nghi kị với vợ của mình đã khiến tôi mất đi một người vợ hiền dịu, nết na, khiến cho hạnh phúc gia đình tan vỡ. Gia đình họ Trương tôi vốn chỉ có tôi là con trai độc nhất nên ngay từ nhỏ, tôi đã được cha mẹ vô cùng nuông chiều. Tình cách của tôi đặc biệt không tin tưởng người khác tuyệt đối bao giờ, ngay cả với những người thân trong nhà. Đến tuổi dựng vợ gả chồng, trong làng có nàng Vũ Nương, tính tình hiền dịu hết mức, lại xinh đẹp, nết na, tôi mến dung hạnh của nàng mà nhờ mẹ đem trầu cau cùng trăm lạng vàng sang rước nàng về làm vợ. Tuy là vợ chồng chung chăn chung gối, nhưng tôi cũng không thực tin tưởng Vũ Nương, bởi vậy nên luôn phòng ngừa nàng trong mọi chuyện. Nhưng Vũ Nương quả chẳng phụ lòng tôi và Trương gia luôn xử sự vô cùng khéo léo mọi chuyện, nên lấy nhau mà hai vợ chồng tôi chưa từng bao giờ bất hòa. Thế nhưng, có những sự việc đến thật bất ngờ quá sức với tôi! Từ nhỏ, tôi vốn dựa mình là con nhà hào phú, nên chưa từng ngó qua sách vở, cho rằng chỉ cần có tiền thì có thể làm được mọi điều. Đến lúc triều đình có chiến sự biên ải, tuyển lính sung quân, tôi cũng vẫn nghĩ, mình con nhà hào môn, sẽ không bị bắt đi lính biên ải xa kia. Thế nhưng, tuy tôi con nhà hào phú thật, nhưng vì không có học thức nên trong danh sách bắt đi lính đánh Chiêm Thành, tên tôi ở ngay đầu tiên. Biết không thể tránh khỏi, tôi đành lòng chuẩn bị ra đi. Đến ngày tôi đi, mẹ tôi nuốt nước mắt mà dặn rằng - Nay con phải ra đi vì việc quân việc nước, mẹ biết rằng đây là thời cơ để con tạo dựng nên sự nghiệp, công danh cho mình. Thế nhưng, ngoài chiến trường, binh đao khó biết, con hãy biết giữ mình cẩn thận. Đừng vì tham công danh, lợi ích mà mắc lừa quân địch. Mẹ chẳng mong con về mang được tiếng thơm, chỉ mong sao con trai mẹ trở về trong bình an là được. Con hãy nghe lời mẹ dặn thì mẹ ở nhà mới yên lòng được. [external_link offset=1] Tôi nghe lời mẹ dặn hết sức kính cẩn, quỳ xuống đất, dập đầu mà vâng lời mẹ. Còn Vũ Nương – vợ tôi, nàng buồn rầu rót chén rượu đầy tràn rồi dặn tôi rằng - Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm, vang danh trở về quê cũ, chỉ xin ngày về, chàng mang theo được hai chữ bình yên trở lại, thế là đủ rồi. Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường, rợ man chạy tội, vương sư uổng công; lời tâu công lớn phá giặc đã chầy, kỳ hẹn thay quân hóa muộn, khiến thiếp ôm nỗi quan hoài, mẹ già triền miên lo lắng. Trong mảnh trăng Trường An, nhanh tay đập áo rét, ngắm liễu tàn rủ bóng động nỗi niềm biên ải xa xôi. Giả sử có muôn vàn thư tín, chỉ e không một tin về. Chàng ở nơi xa xôi, còn mình thiếp ôm nỗi quan hoài, thương nhớ! Vũ Nương nói xong mà nước mắt đã chảy tràn, khiến tôi và mọi người không khỏi xúc động. Vợ tôi vẫn luôn hiền dịu như thế, chu đáo như thế, lúc ấy, tôi chỉ mong rằng mấy năm ròng xa cách, nàng hãy giữ trọn một đạo với chồng là được. Lạy mẹ già thêm một lạy, ta vội xách tư trang quay gót, tới chỗ tập hợp binh lính sung quân. Miền biên ải xa xôi, đêm ngày hành quân vất vả. Ba năm ròng rã đánh giặc Chiêm Thành, vào sinh ra tử đã không ít lần, cuối cùng quân giặc ngoan cố cũng đã chịu đầu hàng. Ba năm ròng, cuối cùng tôi cũng được trở về nhà. Thế nhưng, niềm vui ngắn chẳng tày gang. Về tới nhà, tôi nhận được tin rằng, mẹ tôi vì mong ngóng tin con trai nơi biên ải, đã lâm bệnh mà qua đời, còn tôi thì có thêm một đứa con trai tên là Đản. Mẹ mất, trong lòng tôi buồn vô hạn, cũng may còn có đứa con trai này khiến tôi có chút niềm vui trong lòng. Còn vợ tôi, Vũ Nương, nàng vẫn vậy, vẫn luôn ân cần, nhẹ nhàng và chu đáo như thế, mọi việc trong nhà từ khi tôi đi, mẹ mất, nàng một mình quán xuyến tất thảy. Ngày tôi trở về, nàng vui mừng vô cùng, vợ chồng con cái lại được quây quần sum họp hưởng hạnh phúc. Hôm sau, tôi dẫn con trai ra ngoài thăm mộ người mẹ già, thế nhưng, thằng bé nhất định không chịu theo tôi còn gào khóc om sòm. Tôi mới dỗ dành nó rằng - Con nín đi, đừng khóc nữa mà cha buồn lòng! Cha rời xa bà ba năm, nay trở về mà bà đã mất, thật trớ trêu thay! Đứa con tôi mới ngây ngô nhìn tôi rồi hỏi - Ô hay, ông cũng là cha của tôi sao? Ông biết nói thật lạ quá chứ cha tôi trước kia chẳng nói gì cả bao giờ! Ô, sao có chuyện lạ đời, tôi đi lính đã ba năm nay, năm nay mới trở về, mới được gặp con trai, sao nó lại nói đã từng có cha trước kia, việc này là như thế nào? Tôi mới gặng hỏi đứa con - Cha trước kia là ai? Sao lại đến mà không nói gì? Câu trả lời của đứa con làm tôi lặng người đi - Trước đây, ông chưa về, đêm nào cha tôi cũng đến ngồi cùng mẹ tôi, mẹ làm gì cũng làm theo, mẹ ngồi cũng ngồi, đi cũng đi, nhưng chẳng bao giờ bế tôi cả! Một người đàn ông đêm nào cũng đến ư? Trời ơi, một người phụ nữ có chồng ở nhà chồng một mình vậy mà còn dẫn đàn ông đến ở qua đêm ư? Phải chăng Vũ Nương kia đã làm gì có lỗi với Trương Sinh tôi, phải chăng nàng ta đã phản bội tôi mà thất tiết với ai rồi? Ba năm chờ chồng mà lại qua lại với người đàn ông khác, sao còn xứng với tôi đây? Về tới nhà, tôi mắng vợ một trận thật lớn để hả giận. Tôi mắng nàng ta là người phụ nữ hư thân mất nết, không biết xấu hổ, chồng đi chinh chiến ba năm lại chẳng biết giữ trọn đạo làm vợ. Vũ Nương lúc đầu ngạc nhiên, nàng trân mắt nhìn tôi đăm đăm, rồi nàng khóc mà rằng - Thiếp vốn con nhà nghèo, may mắn được gả cho chàng, vào Trương gia cùng chàng lập nên ơn nghĩa vợ chồng. Chia xa khi vừa lập gia thất được nửa năm, xa chàng, thật lòng thiếp vô cùng buồn tủi! Ba năm chàng rời xa, tưởng lòng đã lạnh, chưa một lần thiếp dám nghĩ tới người nào khác, ngõ liễu tường hoa chưa bao giờ ngó ngàng. Thiếp đã giữ trọn đạo vợ chồng với chàng, mong rằng chàng hãy soi tỏ, đừng vội tin lời người ngoài mà nghi oan cho thiếp! Thế nhưng, những lời nói ấy của nàng khi ấy, tôi chẳng tin lấy nửa lời. Trong lòng tôi chỉ còn sự giận dữ vì bị phản bội, chỉ một mực nghi kị nàng đã làm việc có lỗi với tôi. Tôi chưa từng kể với nàng, tôi nghe con trai nói, mặc dù nàng gặng hỏi, tôi cũng chưa từng để tâm những lời nói thanh mình của nàng. Nếu khi ấy, tôi không ghen tuông mù quáng mà biết lắng nghe Vũ Nương, lắng nghe những lời giải thích của nàng, chịu nghe những lời khuyên ngăn của hàng xóm thì tôi đã chẳng phải chịu cảnh chăn lìa gối chiếc với nàng bao năm qua. Lúc ấy, tôi chỉ một mực cho rằng nàng thất tiết, mỗi ngày đều dùng lời tệ bạc mà mắng nhiếc, đánh đuổi nàng đi. Vào ngày thứ bảy sau chuyện đó, Vũ Nương vừa khóc vừa nói với tôi rằng - Thiếp nương tựa vào chàng vì niềm vui gia đình, vì con trai của chúng ta, chưa bao giờ có ý nghĩ rời xa gia đình này. Đâu thể ngờ, chàng rời đi ba năm, trở về lại vì một lời của kẻ khác mà nghi oan cho rằng thiếp ở nhà không giữ trọn đạo vợ chồng. Nay sự đã đến nước này, thiếp cũng không thể trần tình, thanh minh với chàng được nữa. Thiếp đâu có thể còn dám ngước nhìn lên núi Vọng Phu cao vời vợi kia nữa! Thế nhưng, những lời ấy đâu lọt vào tai tôi nửa chữ, tôi chỉ một mực chì chiết, nghi kị nàng. Nói xong, nàng đứng dậy, tắm rửa thay quần áo rồi ra đi. Lúc đó, tôi cứ tưởng, nàng thẹn với chồng con, với làng xóm nên ra đi, ai ngờ đâu, nàng lại ra sông mà gieo mình xuống, chỉ để chứng tỏ lòng trung trinh của mình. Nghĩ lại đến đây, tôi thật vô cùng ân hận, chỉ vì sự nghi ngờ vô cớ của mình mà đã đẩy người con gái dịu dàng, xinh đẹp như vợ tôi vào chốn đường cùng. Lúc nghe tin nàng gieo mình xuống sông, tôi tuy còn giận ở trong lòng nhưng nghĩ lại ơn nghĩa vợ chồng, tìm người vớt thây nàng, thế nhưng chẳng thấy đâu cả. Lòng ôm sầu hận, tôi chẳng thể nào ngủ được. Một buổi tối, khi đang ngồi cùng con trai bên chiếc đèn khuya hiu hắt thì bất chợt con trai tôi reo lên rằng - Cha Đản lại đến rồi! Tôi bất ngờ ngẩng đầu nhìn tứ phía, nhưng chẳng thấy tăm hơi một người nào, tưởng con chơi trò nói đùa, mới gặng hỏi con ở đâu. Nó mới nhanh chân chạy lại bức vách rồi trỏ vào cái bóng của tôi in trên vách mà bảo - Đây này! Tôi như chết lặng đi, giờ thì tôi đã hiểu mọi cơ sự rồi. Chắc hẳn vợ của tôi đã nói với con rằng cái bóng trên vách là cha của nó. Tôi đã thật ngu ngốc khi không nói rõ ràng với vợ của mình, để giờ đây, dù ân hận, tôi cũng chẳng thể làm gì được nữa. Vũ Nương của tôi đã chẳng thể trở về bên cạnh tôi được nữa rồi! Ngày tháng cứ trôi qua chậm rãi, nỗi ân hận vì đánh mất người vợ hiền cứ day dứt trong lòng tôi. Cho tới một hôm, có người tự xưng là Phan Lang, tới tìm gặp tôi. Tôi lạ lùng bởi tôi không hề biết người này. Thế nhưng, người tên Phan Lang ấy đem đến cho tôi một tin còn đáng giật mình hơn nữa vợ tôi còn sống. Ban đầu, tôi không tin, chỉ coi đó là trò đùa của anh ta. Thế nhưng khi anh ta đưa chiếc thoa vàng rồi kể câu chuyện lưu lạc dưới thủy cung của vua Nam Hải, gặp lại vợ tôi, cùng nàng hàn huyên rồi được nhờ là đưa cho tôi chiếc thoa này, bấy giờ tôi mới tin là sự thật. Phan Lang còn dặn rằng, Vũ Nương muốn nhờ tôi lập một đàn tràng giải oan ở bến Hoàng Giang – nơi vợ tôi gieo mình xuống thì nàng sẽ trở về. Tôi vô cùng kinh sợ, bán tín bán nghi, thế nhưng, nếu Vũ Nương – vợ tôi được trở về thì thế nào, tôi cũng bằng lòng. Vậy là tôi bèn theo lời nàng, lập một đàn tràng ở bến Hoàng Giang ba ngày ba đêm ròng rã, vậy nhưng vẫn chưa thấy Vũ Nương xuất hiện. Đến ngày thứ tư, lúc tôi tưởng chừng hi vọng đã dần cạn kiệt thì quả nhiên thấy một chiếc kiệu hoa rực rỡ xuất hiện giữa dòng nước mênh mông. Theo sau kiệu lớn là hơn năm mươi chiếc xưa, với cờ tàn tán lọng, cả một khúc sông bỗng rực rỡ, chói lóa, huyền ảo. Rồi từ trong kiệu hoa, Vũ Nương bước ra, mặc trên mình bộ y phục lấp lánh, tôi hoa mắt chờ đợi, khi xưa nàng đã vô cùng xinh đẹp, khoác lên bộ y phục này thì càng xinh đẹp hơn gấp bội phần. Thế nhưng, khi tôi vội vàng cất tiếng gọi thì nàng không từ từ tiến lại bờ mà chỉ đứng giữa dòng mà nói vọng vào với tôi - Đa tạ chàng đã giúp thiếp thực hiện nguyện ước của mình. Nhưng nay mây tan gió tạnh, thiếp đã thề nguyện ở lại cùng sống chết để cảm tạ ơn nghĩa của Đức Linh Phi. Thiếp chẳng thể trở về nhân gian sum họp cùng chàng được nữa! Mong chàng hãy nuôi nấng, chăm sóc bé Đản nên người, vậy là thiếp mãn nguyện rồi. Thiếp đa tạ chàng! Nói xong, nàng vén kiệu mà bước vào, cả kiệu hoa và đoàn xe cứ thoắt ẩn thoắt hiện rồi loang loáng mờ dần, biến mất vào trong hư không. Tôi vội vã gọi tên nàng, thế nhưng, chẳng có ai đáp lại lời tôi nữa, Vũ Nương đã thực sự biến mất rồi. Tôi thất thểu bước về nhà, trong lòng ôm đầy nỗi ân hận. Chính tôi là người đã đẩy nàng vào bước đường cùng, giờ đây, chẳng có gì có thể cứu vãn được sự việc nữa. Mọi việc thực sự đã kết thúc rồi. Giờ đây, hơn hai mươi năm sau khi sự việc đã xảy ra, tôi vẫn ôm trong mình nỗi ân hận vô vàn. Dù sau này, tôi đã dần sửa đổi tâm tình mong có thể vơi bớt nỗi lòng, thế nhưng, hình bóng của Vũ Nương vẫn luôn luôn hiện ra trong tâm trí tôi. Có lúc tôi mong được trở lại là Trương Sinh của hai mươi năm trước để có thể nói một lời xin lỗi với người vợ thân yêu của mình. Thế nhưng, mọi chuyện đã lỡ, chẳng có gì có thể thay đổi được nữa. Con trai tôi đã lớn khôn, thành người, chuẩn bị thành gia lập thất, tôi đã nuôi dạy nó bằng cả tình yêu với Vũ Nương. Hi vọng nàng ở dưới chốn thủy cung cũng luôn dõi theo cha con tôi mỗi ngày và vui mừng vì điều đó. Kể lại Chuyện người con gái Nam Xương - Mẫu 5 Tôi nhớ mãi khi bóng dáng làng mờ nhạt trên sông, rồi từ từ biến mất. Tôi tha thiết gọi tên nàng nhưng không có hồi đáp, nàng cứ vậy mà biến mất, vĩnh viễn rời xa cha con tôi. Tất cả cũng chỉ vì tôi ghen tuông mù quáng, mà giờ tôi đã mất người vợ thảo hiền. Tôi vốn quê ở Nam Xương, gia cảnh giàu có nhưng vì ham chơi mà bỏ bê học hành, nên vừa ngoài hai mươi, mẹ tôi đã kén vợ cho tôi. Nàng tên Vũ Nương, người con gái thùy mị nết na, lại thêm phần tư dung tốt đẹp. Tôi vô cùng hài lòng về vợ của mình, nhưng tính tôi lại hay ghen, sợ vợ mình xinh đẹp như vậy sẽ có nhiều người theo đuổi nên tôi vẫn hết sức phòng ngừa. Biết tôi tính như vậy nên nàng hết sức giữ gìn, luôn chăm lo suy nghĩ cho gia đình. Tôi cảm thấy thật mĩ mãn và càng ngày càng yêu nàng hơn. Nhưng cuộc sống vợ chồng hạnh phúc chẳng được bao lâu thì chiến tranh xảy ra, tôi được gọi trong danh sách đi lính. Lúc này mới hối hận làm sao, nếu khi xưa tôi chăm chỉ học hành thì có thể bây giờ tôi chẳng phải xa mẹ già, vợ bụng mang dạ chửa. Ngày đưa tiễn tôi lên đường cả mẹ và nàng đều khóc hết nước mắt, không cầu tôi dành công danh, chỉ cần có thể mạnh khỏe, bình an trở về. Những ngày tháng ở chiến trường tôi nhớ gia đình tha thiết, nhớ mẹ già ở nhà mong ngóng, nhờ người vợ hiền thục. Tôi chỉ mong chiến tranh nhanh chóng kết thúc để được trở về đoàn tụ bên gia đình. Thời gian nhanh chóng qua đi, chiến tranh kết thúc, tôi về nhà lòng đầy hứng khởi, mong nhớ. Nhưng ngày tôi về thì mới hay tin, mẹ vì thương nhớ tôi quá nhiều mà sinh bệnh nên đã mất. Tôi bế đứa con nhỏ hơn một tuổi ra thăm mộ mẹ, nhưng bé Đản khóc lớn, không chịu đi cùng tôi, tôi dỗ dành - Nín đi con, đừng khóc! Bà mất lòng cha đã buồn khổ lắm rồi! Con tôi ngạc nhiên nói - Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói chứ không giống như cha trước kia chỉ nín thin thít. Tôi ngạc nhiên, sững sờ, tim bỗng nhói đau, máu ghen trong người nổi lên, tôi hỏi dồn thằng bé về người đàn ông đó. Thằng bé lại hồn nhiên đáp lại - Đêm nào cũng có một người đến, mẹ ngồi người đó cũng ngồi, mẹ đi người đó cũng đi, nhưng người đó không bao giờ bế Đản cả. Đến giờ tôi không còn đủ bình tĩnh nữa, tôi đi lính lâu ngày, vợ tôi thảo hiền, nết na chỉ là cái vỏ bề ngoài. Tôi đi lính đã lập tức thất tiết với tôi. Tôi nổi giận đùng đùng, về nhà đánh đuổi vợ tôi đi. Nàng tha thiết van xin - Thiếp vốn con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu. Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa từng bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói. Dám xin bày tỏ để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp. Nhưng những lời nàng đối với tối lúc đó chỉ là gian dối, ngụy biện, tôi gạt phát đi và dùng những lời lẽ đay nghiến, trì triết để đuổi nàng đi. Giá lúc ấy tôi bình tĩnh hơn, nói rõ nguyên do cho nàng giải thích thì gia đình tôi đã không phải chịu cảnh li tán như ngày hôm nay. Uất ức vì không được giãi bày, Vũ Nương đã tắm gội chay sạch và tìm đến bến sông Hoàng Giang để tự vẫn nhằm minh chứng cho tấm lòng trong sạch của mình. Lúc ấy tôi vẫn chưa biết rõ sự tình nhưng biết vợ tự vẫn cũng hết sức đau lòng, tôi ra bến sông để vớt xác nhằm chôn cất nàng chu đáo nhưng không tài nào tìm thấy, tôi và con đành trở về nhà. Cuộc sống một mình gà trống nuôi con quả chẳng dễ dàng, đêm ấy tôi thắp đèn bỗng bé Đản reo lớn - Cha Đản lại đến kìa. Chính là người cha vẫn đến cùng mẹ đó. Bấy giờ tôi mới biết mình đã nghi oan cho vợ. Trong những ngày xa tôi, vì thương nhớ và cũng muốn bù đắp cho con, để bé Đản được nhận tình yêu đủ đầy của cha và mẹ mà nàng đã trỏ bóng mình bảo cha Đản. Tôi lại ghen tuông mù quáng, nghe lời đứa trẻ ngây thơ, không tìm hiểu rõ nguồn cơn nên đã gây nên cái chết oan nghiệt cho nàng. Tôi ân hận lắm. Thời gian cứ thế thấm thoát trôi qua. Bỗng một hôm Phan Lang người cùng làng tôi mang chiếc hoa mà ngày xưa vợ vẫn hay dùng đến và nói lời Vũ Nương nhắn gửi, bảo tôi lập đàn giải oan trên sông, đốt cây đang chiếu xuống nước để Vũ Nương trở về. Tôi nghe xong bán tín bán nghi, nhưng nhìn chiếc hoa đúng là của vợ tôi thật. Tôi đành lập một đàn giải oan trên sông, Vũ Nương trở về thật, nhìn thấy tôi nàng đã nói - Thiếp cảm tạ tấm lòng chàng, ơn đức Linh Phi cứu mạng thiếp đã hứa sẽ ở đó cùng Linh Phi, sông chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng thiếp chẳng về nhân gian được nữa. Tôi còn chưa kịp nói lời xin lỗi nàng, Vũ Nương đã biến mất. Khi thấy nàng trở về mà không một lời trách cứ, oán thán càng làm tôi đau đớn, day dứt hơn. Chỉ một phút nóng nảy, chỉ vì tính ghen tuông tôi đã cướp đi tình yêu thương của mẹ mà bé Đản vốn được hưởng, và tôi đã đánh mất hạnh phúc của chính mình, mất người vợ thảo hiền, dịu dàng. Cả đời này tôi sẽ sống trong day dứt, đau khổ, và mãi mãi không quên nàng… Kể lại Chuyện người con gái Nam Xương - Mẫu 6 Đã bao năm trôi qua, nhưng tôi vẫn không thể nào quên được những gì mình đã làm gây ra khiến vợ tôi khiến nàng chọn con đường bức tử. Một nỗi ân hận ghê gớm luôn vò xé nỗi lòng mỗi khi đêm về. Tôi muốn kể cho các bạn nghe câu chuyện sai lầm này, để ai đó đừng bước vào vết xe đổ của tôi. Tôi sinh ra trong một gia đình khá giả ở Nam Xương. Lúc bấy giờ, trong cùng làng có một người con gái đẹp tuy nhà nghèo có nhưng đẹp cả người đẹp nết, nàng tên là Vũ Thị Thiết, mọi người xung quanh thường gọi là Vũ Nương. Mến vì dung hạnh đoan trang, nên tôi đã xin mẹ trăm lạng vàng cưới nàng về làm vợ. Chúng tôi sống với nhau hòa thuận, hạnh phúc và cùng háo hức chờ đợi đứa con đầu lòng. Bất ngờ, chiến tranh xảy ra, triều đình bắt lính đi tòng quân. Do xưa nay chẳng màng học hành nên tôi có tên trong danh sách. Không còn cách nào khác, tôi đành phải chia tay mẹ già, vợ trẻ để lên đường ra trận. Vào ngày tòng quân, mẹ già nắm chặt tay tôi, ngậm ngùi khuyên - Nay con phải tạm ra tòng quân, xa lìa dưới gối. Tuy là hội công danh từ xưa ít gặp, nhưng trong chỗ binh cách, phải lấy việc giữ mình làm trọng, biết gặp nạn thì lui, lượng sức mà đánh, đừng nên tham miếng mồi thơm, để lỡ mắc vào lưới cá. Quan cao tước lớn nhường để người ta. Có như thế thì mẹ ở nhà mới đỡ lo lắng vì con được. Tôi quỳ xuống vâng lời mẹ dạy. Vợ tôi rót chén rượu đầy nâng bằng hai tay đưa cho tôi và nói rằng – Lang quân đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi. Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường, rợ man chạy tội, vương sư uổng công; lời tâu công lớn phá giặc đã chầy, kỳ hẹn thay quân hóa muộn, khiến thiếp ôm nỗi quan hoài, mẹ già triền miên lo lắng. Trông mảnh trăng Trường An , nhanh tay đập áo rét, ngắm liễu tàn rủ bóng động nỗi niềm biên ải xa xôi. Giả sử có muôn hàng thư tín, chỉ e không một tin về. Nàng nói đến đấy, mọi người đều ứa hai hàng lệ. Rồi tiệc tiễn vừa tàn, tôi dứt áo lên đường. Mọi vật xung quanh vẫn như cũ, nhưng lòng tôi đã bùi ngùi bởi cảnh sinh li và mối tình ngàn dặm quan san cách trở. Ở chiến trường hơn một năm trời, may mắn được trở về đoàn tụ với gia đình. Nhưng sét đánh ngang tai, mẹ tôi vì quá nhớ thương con mà ốm đau biền biệt, cuối cùng cụ đã qua đời. Tôi đau xót biết bao, định bế con trai - bé Đản mới hơn một tuổi ra thăm mộ. Nhưng con từ lúc đẻ chưa gặp mặt, xa lạ nằng nặc không chịu đi. Dọc đường, bé Đản khóc, tôi dỗ “Nín đi con, bà mất, lòng cha buồn khổ lắm rồi”. Bé Đản liền nói tôi không phải là cha nó, cha nó là người trước đây đêm nào cũng đến bên mẹ. Tôi choáng váng. Đất dưới chân tôi như sụp xuống. Tôi cứ bần thần nghĩ ngợi, Vũ Nương là một người vợ ngoan hiền, đức hạnh, chẳng lẽ hơn một năm xa cách, nàng lại trở nên hư hỏng như vậy sao? Tôi bỗng thấy căm giận Vũ Nương. Ghen tuông mù quáng khiến tôi bùng lên, không có cách gì dập tắt được. Về đến nhà, tôi la mắng om sòm cho hả giận. Vũ Nương bàng hoàng sửng sốt. Nàng vừa khóc vừa thanh minh “Thiếp vốn con nhà nghèo khó, được nương tựa nhà giàu, vẫn lấy sự nết na thuỳ mị, công dung ngôn hạnh làm đầu. Vợ chồng sum họp chưa được bao lâu, chia xa chỉ vì lửa binh chứ không vì lí do gì khác. Trong ba năm cách biệt, thiếp một mực giữ gìn tiết hạnh, không tô son điểm phấn, không bén gót chốn chơi bời hoa liễu, một mực nhớ thương và chung thuỷ với chàng. Xin chàng hãy tin thiếp, đừng nghi oan cho thiếp mà tội nghiệp…”. Nhưng bao nhiêu lời nói chân thật cũng không làm dịu được mối nghi ngờ trong tôi. Hàng xóm thương nàng tần tạo, chăm sóc mẹ chồng con thơ chu đáo, ma chay cho mẹ làm tương tự thân sinh của chính mình nên ra sức bênh vực và biện bạch cho nàng. Nhưng tôi không nghe ai hết. Lúc đó tôi chẳng quan tâm lời ai nói, tôi mắng nhiếc không tiếc lời rồi đánh đuổi nàng đi. Cảm thấy đã không thể thuyết phục được tôi, Vũ Nương bất đắc dĩ nói trong đau đớn, xót xa, cay đắng rằng – Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng, vì có cái thú vui nghi gia nghi thất, có sự yên ổn được tựa bóng cây cao. Đâu ngờ ân tình tựa lá, gièm báng nên non. Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết bông hoa gãy cuống, kêu xuân cái én lìa màn, nước thẳm buồm xa, đâu còn thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa. Tôi đã không biết, nàng lại đi tắm gội sạch sẽ, ra bến Hoàng Giang than khóc, thề nguyền và gieo mình xuống sông tự vẫn. Về phần tôi, mối nghi ngờ không chỉ làm hại Vũ Nương mà còn làm khổ tôi, dằn vặt tôi không phút nào yên. Tuy giận Vũ Nương thất tiết nhưng khi nàng tự vẫn, tôi cảm thấy lòng đau nhói. Tôi cố vớt thây nàng để chôn nhưng tìm mãi không được. Một đêm, tôi ngồi buồn bã trước ngọn đèn khuya. Chợt đứa con trai bật thốt “Cha Đản lại đến kia kìa!”, rồi chỉ tay vào bóng tôi in trên vách “Đây này!”. Tôi ngỡ ngàng và hiểu ra tất cả. Thì ra, ngày thường lúc tôi vắng nhà, Vũ Nương hay trỏ bóng mình trên tường đùa con và báo đó là cha Đản. Tôi thấu hiểu nỗi oan động trời của vợ và trách mình sao quá nhẫn tâm, nhưng mọi chuyện trót đã qua rồi, không làm sao thay đổi được nữa… Câu chuyện của tôi, những sai lầm của tôi là có thật. Tôi đã đánh mất hạnh phúc của chính mình. Kể ra câu chuyện đau lòng này, tôi chỉ muốn mọi người đừng xử sự nông nổi, cả giận mất khôn như tôi. Hãy tin yêu con người, thực lòng yêu thương người thân để gia đình không rơi vào những bi kịch đau đớn. Kể lại Chuyện người con gái Nam Xương - Mẫu 7 Bóng nàng ẩn hiện trên sông, nói lời tạ từ tôi và con, rồi nàng biến mất…. Tôi tha thiết gọi tên nàng để níu kéo nhưng nàng đã vĩnh viễn biến mất, vĩnh viễn rời xa cha con tôi. Tất cả cũng chỉ tại tính ghen tuông mù quáng, mà giờ tôi đã mất người vợ thảo hiền, nết na. Tôi vốn quê ở Nam Xương, nhà giàu có nhưng tôi lại ham chơi hơn ham học, nên vừa ngoài hai mươi, mẹ tôi đã kén vợ cho tôi. Nàng tên Vũ Nương người con gái thùy mị nết na, lại thêm phần tư dung tốt đẹp. Tôi hài lòng về vợ mình lắm, nhưng tính tôi lại hay ghen, sợ vợ mình xinh đẹp, thùy mị như vậy sẽ nhiều người theo đuổi nên tôi vẫn hết sức phòng ngừa. Biết tôi tính như vậy nên Vũ Nương cũng hết sức giữ gìn, bởi vậy gia đình tôi luôn được êm đềm, yên ấm. Bởi vậy, tôi càng yêu nàng hơn. Nhưng cuộc sống gia đình hạnh phúc chẳng được bao lâu, chiến tranh xảy ra, tôi đứng đầu trong danh sách đi lính. Ngày đưa tiễn tôi lên đường cả mẹ và nàng đều khóc hết nước mắt, mong tôi bình an trở về. Những năm tháng ở chiến trường tôi nhớ gia đình tha thiết, nhớ mẹ già ở nhà mong ngóng, nhờ người vợ hiền thục. Tôi chỉ mong chiến tranh nhanh nhanh kết thúc để tôi được trở về bên gia đình. Ba năm chiến tranh qua đi, tôi về nhà lòng đầy hứng khởi, mong nhớ. Nhưng ngày tôi về lại ấp xuống biết bao tai họa. Mẹ tôi vì thương nhớ tôi quá nhiều mà sinh bệnh nên đã mất. Tôi bế đứa con nhỏ hơn một tuổi ra thăm mộ mẹ, nhưng bé Đản khóc lớn, không chịu đi cùng tôi, tôi dỗ dành Nín đi con, đừng khóc! lòng cha đã buồn khổ lắm rồi! Con tôi nói Ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói chứ không giống như cha trước kia chỉ nín thin thít. Tôi ngạc nhiên, sững sờ, tim bỗng nhói đau, máu ghen trong người nổi lên, tôi hỏi dồn thằng bé về người đàn ông đó. Thằng bé hồn nhiên đáp lại - Đêm nào cũng có một người đến, mẹ ngồi người đó cũng ngồi, mẹ đi người đó cũng đi, nhưng người đó không bao giờ bế Đản cả. Đến giờ tôi không còn đủ bình tĩnh nữa, vợ tôi thảo hiền, nết na chỉ là cái vỏ bề ngoài. Tôi đi lính đã lập tức thất tiết với tôi. Tôi nổi giận đùng đùng, về nhà đánh đuổi vợ tôi đi. Nàng tha thiết van xin - Thiếp vốn con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu. Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa từng bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói. Dám xin bày tỏ để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp. Nhưng những lời nàng đối với tối lúc đó chỉ là gian dối, ngụy biện, tôi gạt phát đi và dùng những lời lẽ đay nghiến, trì triết để đuổi nàng đi. Giá lúc ấy tôi bình tĩnh hơn, nói rõ nguyên do cho nàng giải thích thì gia đình tôi đã không phải chịu cảnh li tán như ngày hôm nay. Uất ức vì không được giãi bày, Vũ Nương đã tắm gội chay sạch và tìm đến bến sông Hoàng Giang để tự vẫn nhằm minh chứng cho tấm lòng trong sạch của mình. Lúc ấy tôi vẫn chưa biết rõ sự tình nhưng biết vợ tự vẫn cũng hết sức đau lòng, tôi ra bến sông để vớt xác nhằm chôn cất nàng chu đáo nhưng không tài nào tìm thấy, tôi và con đành trở về nhà. Cuộc sống một mình gà trống nuôi con quả chẳng dễ dàng, đêm ấy tôi thắp đèn bỗng bé Đản reo lớn - Cha Đản lại đến kìa. Chính là người cha vẫn đến cùng mẹ đó. [external_link offset=2] Bấy giờ tôi mới biết mình đã nghi oan cho vợ. Trong những ngày xa tôi, vì thương nhớ và cũng muốn bù đắp cho con, để bé Đản được nhận tình yêu đủ đầy của cha và mẹ mà nàng đã trỏ bóng mình bảo cha Đản. Tôi lại ghen tuông mù quáng, nghe lời đứa trẻ ngây thơ, không tìm hiểu rõ nguồn cơn nên đã gây nên cái chết oan nghiệt cho nàng. Tôi ân hận lắm. Thời gian cứ thế thấm thoát trôi qua. Bỗng một hôm Phan Lang người cùng làng tôi mang chiếc hoa mà ngày xưa vợ vẫn hay dùng đến và nói lời Vũ Nương nhắn gửi, bảo tôi lập đàn giải oan trên sông, đốt cây đang chiếu xuống nước để Vũ Nương trở về. Tôi nghe xong bán tín bán nghi, nhưng nhìn chiếc hoa đúng là của vợ tôi thật. Tôi đành lập một đàn giải oan trên sông, Vũ Nương trở về thật, nhìn thấy tôi nàng đã nói - Thiếp cảm tạ tấm lòng chàng, ơn đức Linh Phi cứu mạng thiếp đã hứa sẽ ở đó cùng Linh Phi, sông chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng thiếp chẳng về nhân gian được nữa. Tôi còn chưa kịp nói lời xin lỗi nàng, Vũ Nương đã biến mất… Nàng trở về chẳng hề trách cứ, oán thán tôi một lời. Điều ấy càng làm tôi đau đớn, day dứt hơn. Chỉ một phút nóng nảy, chỉ vì tính ghen tuông tôi đã cướp đi tình yêu thương của mẹ mà bé Đản vốn được hưởng, và tôi đã đánh mất hạnh phúc của chính mình, mất người vợ thảo hiền, dịu dàng. Cả đời này tôi sẽ sống trong day dứt, đau khổ, và mãi mãi không quên nàng… Kể lại Chuyện người con gái Nam Xương - Mẫu 8 Tôi sinh ra trong một gia đình khá giả ở Nam Xương. Vừa tới tuổi đôi mươi thì được cha mẹ cưới vợ cho. Vợ tôi là Vũ Thị Thiết, dung mạo đoan trang, tính nết hiền lành, chăm chỉ. Chúng tôi sống với nhau hòa thuận, hạnh phúc và cùng háo hức chờ đợi đứa con đầu lòng sắp ra đời. Bất ngờ, chiến tranh bùng nổ, loạn lạc xảy ra khắp chốn. Nhận được lệnh sung vào lính, tôi đành chia tay mẹ già, vợ trẻ để lên đường ra trận. Lúc tiễn đưa, mẹ già nắm chặt tay tôi, ngậm ngùi khuyên - Con ráng giữ mình nơi mũi tên hòn đạn, gặp khó nên lui, lường sức mà tiến, đừng nên tham miếng mồi thơm để lỡ mắc vào cạm bẫy. Quan cao tước lớn nhường cho người ta. Có như thế, mẹ ở nhà mới khỏi lo lắng vì con được. Tôi quỳ xuống vâng lời mẹ dạy. Vợ tôi rót chén rượu đầy nâng bằng hai tay đưa cho tôi và nói rằng - Chàng ra đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong chàng được đeo ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ. Chỉ xin ngày về mang theo hai chữ bình yên, thế là đủ. Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao. Rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến cho thiếp băn khoăn, mẹ hiền lo lắng. Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú. Dù thư tín có nghìn hàng, cũng sợ không có cánh hồng bay bổng. Nàng nói đến đây, mọi người đều ứa nước mắt. Rồi tiệc tiễn vừa tàn, tôi dứt áo lên đường. Mọi vật xung quanh vẫn như cũ, nhưng lòng tôi đã bùi ngùi bởi cảnh sinh li và mối tình ngàn dặm quan san cách đi được một tuần thì vợ tôi sinh con trai. Nàng đặt tên cho con là Đản. Có đứa bé, cửa nhà cũng bớt phần hiu quạnh. Ngày qua tháng lại, thoắt đã nửa năm. Mẹ già nhớ thương, lo lắng cho tôi đến nỗi lâm bệnh nặng. Biết không sống được, bà nói với vợ tôi rằng - Ngắn dài có số, tươi héo bởi trời. Mẹ không phải là không muốn đợi chồng con trở về. Song lòng tham vô cùng mà vận trời khó tránh. Nước hết, chuông rền, số cùng khí kiệt. Một tấm thân tàn, nguy trong sớm tối, việc sống chết không khỏi phiền đến con. Chồng con nơi xa xôi, chưa biết sống chết thế nào, không thể về đền ơn được, sau này, trời xét lòng thành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn. Xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ. Dứt lời, mẹ tôi nhắm mắt. Vợ tôi khóc lóc xót thương và lo liệu chôn cất cho mẹ tôi được mồ yên mả đẹp. Một năm sau, giặc giã đã bị dẹp yên, tôi khăn gói trở về quê cũ. Biết tin mẹ đã qua đời, tôi đau đớn lắm! Đón đứa con trai từ tay vợ, tôi bế con ra mộ mẹ để thắp nhang. Ra đến đồng, nó quấy khóc mãi, tôi dỗ dành sao cũng không chịu nín. Tôi bảo con - Nín đi con, đừng khóc nữa! Cha về, bà đã mất, lòng cha buồn khổ lắm rồi! Bất chợt, con tôi bi bô nói - Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít. Tôi ngạc nhiên gặng hỏi thì con tôi kể rằng đêm nào cũng có một người đàn ông đến nhà. Mẹ nó ngồi cũng ngồi, mẹ nó đi cũng đi theo, nhưng không bao giờ bế nó cả. Tính tôi vốn đa nghi. Nghe con nói vậy thì cơn ghen chợt bùng lên dữ dội. Tôi vội về nhà, la hét om sòm cho hả giận. Vợ tôi ôm mặt khóc mà rằng - Thiếp vốn con nhà nghèo khó, may được nương tựa nhà giàu. Vợ chồng sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm, giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn, từng đã nguôi lòng, ngõ liễu đường hoa, chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết như lời chàng nói. Dám xin chàng cho thiếp được bày tỏ, để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng nghi oan cho thiếp! Nhưng mặc cho nàng thanh minh thế nào tôi cũng không tin. Nàng hỏi tôi chuyện kia do ai nói thì tôi giấu không cho nàng biết. Tôi mắng nhiếc nàng thậm tệ rồi đuổi ra khỏi nhà, dù hàng xóm hết lời bênh vực. Cuối cùng, nàng ngậm ngùi vừa nói vừa khóc - Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng vì có cái thú vui nghi gia nghi thất. Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân con én lìa đàn, nước thẳm buồm xa, đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa? Đoạn nàng tắm gội chay sạch, ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời mà than rằng - Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám! Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, xin vào nước làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ. Nói xong, nàng gieo mình xuống sông mà chết. Tuy giận là nàng thất tiết nhưng thấy nàng tự vẫn, tôi cũng động lòng thương, cố vớt thây nàng để chôn nhưng tìm mãi không được. Một đêm, tôi ngồi buồn bã trước ngọn đèn khuya. Chợt đứa con trai bật thốt - Cha Đản lại đến kia kìa! rồi chỉ tay vào bóng tôi in trên vách - Đây này! Tôi chợt hiểu ra tất cả và ân hận vô cùng! Thì ra trong thời gian tôi vắng nhà, đêm đêm, vợ tôi thường đùa với con, trỏ bóng mình mà bảo là cha Đản. Tôi thấu hiểu nỗi oan tày trời của vợ và trách mình sao quá nhẫn tâm, nhưng mọi chuyện trót đã qua rồi! Ở bến sông cạnh làng, có người giữ chức quan đầu mục tên là Phan Lang, một đêm chiêm bao thấy người con gái áo xanh xin tha mạng. Sáng ra, có người biếu ông một con rùa mai xanh. Nhớ lại giấc mơ, ông liền thả con rùa ấy xuống sông. Mấy năm sau, giặc Minh xâm phạm cửa ải Chi Lăng, dân chúng hoảng sợ lên thuyền chạy trốn ra ngoài biển, không may gặp bão lớn, chết đuối cả. Thây Phan Lang dạt vào một động rùa ngoài hải đảo. Có người đàn bà là Linh Phi trông thấy nói rằng - Đây là vị ân nhân đã cứu sống ta thuở xưa! Rồi bà ta lấy thuốc thần cho uống. Lát sau, Phan Lang sống lại. Linh Phi truyền mở tiệc thết đãi. Trong đám người dự tiệc, có một mĩ nhân chỉ trang điểm sơ qua, nét mặt rất giống Vũ Nương. Phan Lang bèn hỏi chuyện và được nàng cho biết mình là Vũ Thị Thiết, người cùng làng, vì oan khuất mà phải gieo mình xuống sông Hoàng Giang tự vẫn và được các tiên nữ dưới thủy cung đưa về đây cùng chung sống với Linh Phi. Trước khi Phan Lang được đưa ra khỏi thủy cung, Vũ Nương có nhờ ông ta nói với tôi rằng sẽ có ngày nàng tìm về. Nếu tôi còn nhớ tình xưa nghĩa cũ thì hãy lập một đàn giải oan ở bến sông. Về đến làng, Phan Lang tìm gặp tôi, kể lại mọi chuyện, nhưng tôi không tin. Lúc ông ta đưa ra kỉ vật làm tin là chiếc hoa vàng của vợ tôi thì tôi sợ hãi nhận rằng đây đúng là vật mà nàng mang theo lúc ra đi. Sáng hôm sau, tôi làm theo đúng lời nàng dặn, lập đàn giải oan suốt ba ngày đêm ở bến sông. Quả nhiên, tôi nhìn thấy Vũ Nương ngồi trên chiếc kiệu hoa ở giữa dòng, theo sau là năm mươi cỗ xe trang trí cờ tán, võng lọng rực rỡ, lúc ẩn lúc hiện. Tôi vội gọi thật lớn nhưng nàng vẫn ở giữa sông mà nói vọng vào - Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết không bỏ. Đa tạ tình chàng, nhưng thiếp không thể trở về nhân gian được nữa! Trong phút chốc, tất cả tan biến. Tôi gục đầu thổn thức. Một sự ân hận ghê gớm vò xé lòng tôi. Chỉ vì một cơn ghen mù quáng mà tôi đã làm cho vợ chồng, mẹ con lâm vào cảnh sinh li tử biệt. Sai lầm của tôi không phương cứu chữa. Tôi chỉ còn mong ước mọi người hãy nhìn vào thảm cảnh của gia đình tôi mà rút ra bài học Đã là vợ chồng thì hãy thương yêu, tôn trọng, tin tưởng lẫn nhau. Có như vậy, hạnh phúc mới được bền lâu. Kể lại Chuyện người con gái Nam Xương - Mẫu 9 Đời người không ai là không phạm sai lầm cả, quan trọng hơn là biết sửa sai. Thế nhưng với tôi khi mắc sai lầm đã không cách nào cứu vớt được, chỉ còn lại sự đau buồn, ân hận, xót thương về những điều đã xảy ra vài năm trước đây...Tôi - Trương Sinh sinh và lớn lên trên mảnh đất Nam Xương. Cha tôi chẳng may mất sớm, nhà chỉ còn lại một mình mẹ và tôi. Hai mẹ con nương tựa vào nhau mà sống. Mẹ luôn muốn tôi lấy vợ sớm để bà có cháu bồng bế, thêm người cho vui cửa vui nhà. Đến tuổi cập kê mẹ đã tìm người mai mối rồi cưới cho tôi một cô gái vô cùng xinh đẹp, nổi tiếng đảm đang ở trong vùng tên là Vũ Thị Thiết. Tôi mừng lắm bởi gia cảnh nhà mình cũng bình thường, mẹ góa con côi, tôi được cái ngoan ngoãn chịu khó làm ăn nhưng cũng không phải con quan chức, địa chủ gì vậy mà nàng lại chịu lấy tôi. Tôi rất yêu vợ, cũng vì yêu nhiều nên đôi khi tôi hay ghen tuông bóng gió. Đó là một thói xấu nhưng vì quá yêu nàng nên tôi không kiềm chế được cảm xúc nóng nảy mối khi có người đàn ông nào muốn tiếp cận hay đến gần Vũ nương. Gia đình nhỏ bé của tôi nay lại thêm được Vũ nương đảm đang chăm sóc, vun vén mà tôi có cảm giác thật hạnh phúc, yên bình. Chắc đó là khoảng thời gian đẹp nhất cuộc đời tôi. Mẹ tôi đã già yếu, bà thương con dâu như chính con ruột của mình, nàng cũng hết mực hiếu thảo với bà. Chúng tôi sống với nhau hòa thuận, hạnh phúc và cùng háo hức chờ đợi đứa con đầu lòng sắp ra đời. Bất ngờ, chiến tranh bùng nổ, loạn lạc xảy ra khắp chốn. Nhận được lệnh sung vào lính, tôi đành chia tay mẹ già, vợ trẻ để lên đường ra trận. Lúc tiễn đưa, mẹ già nắm chặt tay tôi, ngậm ngùi khuyên - Con ráng giữ mình nơi mũi tên hòn đạn, gặp khó nên lui, lường sức mà tiến, đừng nên tham miếng mồi thơm để lỡ mắc vào cạm bẫy. Quan cao tước lớn nhường cho người ta. Có như thế, mẹ ở nhà mới khỏi lo lắng vì con được. Tôi quỳ xuống vâng lời mẹ Vũ nương, nàng rót chén rượu đầy nâng bằng hai tay đưa cho tôi và nói rằng - Chàng ra đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong chàng được đeo ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ. Chỉ xin ngày về mang theo hai chữ bình yên, thế là đủ. Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao. Rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến cho thiếp băn khoăn, mẹ hiền lo lắng. Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú. Dù thư tín có nghìn hàng, cũng sợ không có cánh hồng bay bổng. Nhìn hai người phụ nữ quan trọng nhất đời mình như thế, tôi xúc động ngôn nguôi. Trong lòng nảy sinh cảm giác thật ấm áp và an tâm khi nhà cửa, gia thất đã có đôi bàn tay khéo léo của thê tử chăm sóc. Ngày đi lính , lòng nặng trĩu quay lưng về phía ngôi nhà của chúng tôi, tôi bước đi thật nhanh, không ngoảnh đầu lại. Tôi đi được một tuần thì vợ tôi sinh con trai. Nàng đặt tên cho con là Đản. Có đứa bé, cửa nhà cũng bớt phần hiu quạnh. Ngày qua tháng lại, thoắt đã nửa năm. Mẹ già nhớ thương, lo lắng cho tôi đến nỗi lâm bệnh nặng. Vũ nương chẳng ngại khó nhọc, nàng luôn luôn kề cận chăm sóc mẹ tôi cho đến khi bà từ giã cõi trần. Từ đó căn nhà nhỏ vắng đi một bóng người, chỉ còn hai mẹ con nàng sống nương tựa vào nhau. Đản không biết mặt cha nó là ai, bởi vì tôi đã đi lính ròng rã mấy năm trời xa cách. Ngày giặc bị đánh tan là lúc tôi khăn gói trở về quê nhà. Vừa tới cổng nhà nghe người hàng xóm thông báo tin dữ mẹ tôi đã qua đời hơn nửa năm trước tôi đau khổ tột độ, vội vàng vứt chiếc túi cói đựng đồ dùng cá nhân xuống nhà, rồi vội vàng ra thăm mộ mẹ. Nhưng tôi chưa biết mẹ được chôn cất chỗ nào nên dắt thằng bé con trai tôi đi theo, bởi lúc đó vợ tôi đang bận đi chợ mua đồ ăn về đãi tôi thắng giặc trở về. Trong lúc tôi cõng con trai đi thăm mộ mẹ, trên đường đi nó cứ khóc suốt không chịu nhận tôi là ba nó. Nó còn đấm thùm thụp vào lưng tôi bảo "Thả tôi ra ông không phải là ba tôi. Ba tôi đêm nào cũng tới".Người xưa có câu "Đi hỏi già về nhà hỏi trẻ" nên nghe con trai nói thế tôi bực lắm. Tôi tin rằng vợ tôi đã sinh hư trong lúc vắng chồng quạnh hiu, nên mềm yếu với tên nào đó rồi. Tôi vội vàng thắp hương, lạy mẹ ba lạy rồi tức tốc về nhà gặp vợ hỏi rõ đầu đuôi. Vừa đi lòng tôi vừa nóng như lửa đốt, thực sự rất tức giận. Khi tôi bước vào nhà, vợ tôi đang loay hoay dưới bếp với rất nhiều món ngon, nàng bước ra trên mặt còn dính một vệt nhọ nồi, trông nàng lúc ấy rất xinh vô cùng duyên dáng và đáng yêu. Nhưng máu ghen trong người tôi đang lên cao ngút trời tôi không thể nào mà nguôi giận ngay được. Tôi quắc mắt hỏi vợ Con trai nói rằng tối nào ba nó cũng đến thăm, đấy là thằng nào? Thằng nào hả?. Cơn giận bùng lên như ngọn lửa, thiêu đốt hoàn toàn lí trí của tôi. Tôi nóng nảy mắng mỏ ,quát tháo Vũ nương, mặc cho nàng có khóc lóc như thế nào tôi cũng không màng đến. Khi cơn giận lên đến đỉnh điểm, tôi đã thẳng thừng buông lời lạnh lùng đuổi nàng đi ra khỏi nhà. Mấy người hàng xóm đến can ngăn nhưng tôi còn quát cả họ, đuổi họ về. Vũ nương vẫn khóc, từng giọt nước mắt thấm ướt vạt áo nàng. Lòng tôi chợt thấy có cái gì đó nhói lên nhưng rồi ngọn lửa tức giận đã lấn át hết mọi thứ. Tôi mù quáng đuổi nàng đi, đóng cánh cổng nhà lại. Vũ nương bị đuổi ra khỏi nhà, tôi cứ nghĩ nàng ấy sẽ đi về nhà mẹ đẻ hoặc đến nhà bà con nào đó xin tá túc. Nhưng không vợ tôi tắm rửa sạch sẽ, rồi thay xiêm y ra thành Hoàng Gia ngửa mặt than trời xin ông trời nếu như ông có mắt thì hãy chứng giám cho sự trinh tiết đức hạnh của nàng. Rồi nàng tôi gieo mình xuống sông tự tử. Nàng mất rồi. Tôi giật mình. Thật sự là nàng đã ra đi rồi ... Tại sao lại thế, lòng tôi đau đớn nhìn xuống dòng nước lặng. Tôi không nghĩ nàng lại làm quyết liệt tới như thế. Tôi đâm ra oán giận mình đã quá mê muội nếu nàng không trong sạch thì sao lại phản ứng mạnh tới như thế. Tính ghen tuông đã làm tôi gián tiếp dẫn đến cái chết của Vũ nương. Người con gái đáng thương ấy, tôi thương nàng nhưng lại làm nàng tổn thương đến mất cả tính mạng chỉ vì nàng muốn minh chứng cho lời giải thích của nàng với tôi là sự thật. Đêm đến, trong căn nhà lạnh lẽo. Tôi nằm mãi không ngủ được con trai thì kêu khóc đòi mẹ, tôi dỗ mãi nó mới nằm im được một lúc. Tôi cũng không ngủ được nên dậy thắp ngọn đèn lên cho sáng sủa. Khi nhìn thấy bóng của tôi trên vách tường thằng bé Đản con trai tôi mừng rỡ khoe tôi "cha con đó". Câu nói của nó làm tôi giật mình thức tỉnh, hóa ra tôi đã nghi oan cho vợ đẩy nàng tới cái chết thê lương. Hình ảnh kí ức tái hiện lại vô cùng đau thương. Mọi thứ diễn ra quá nhanh, tôi cư xử quá lạnh lùng và tàn nhẫn với Vũ nương. Nàng chỉ mong tôi tin nàng. Thế nhưng tôi đã không làm được điều đó. Giờ tôi có ân hận , đau buồn đến đâu cũng chẳng thể làm nàng quay về với gia đình này nữa. Con tôi đã mất mẹ tại vì người cha vô tâm của nó... Gần nhà tôi có một người làm nghề đánh cá tên Phan Lang một lần ông ấy nằm mơ thấy một cô gái xin tha mạng, khi tỉnh dậy nhặt được một con rùa rất to nên ông ấy nhớ tới giấc mơ bèn thả con rùa về biển. Một hôm người này đi biển bị lật thuyền được một cô gái cứu giúp, hỏi ra mới biết cô gái này chính là vợ tôi. Vợ tôi vì oan khuất mà tìm tới cái chết làm lay động thủy cung nên được cứu vớt. Nàng có nhờ Phan Lang nhắn với tôi rằng Chàng hãy lập đàn giải oan cho thiếp, thiếp sẽ hiện về. Ban đầu tôi bán tín bán nghi không tin hết lời người đàn ông này nói nhưng khi nhận được chiếc hoa vàng tôi đã tin. Đây thật sự là vật dụng của Vũ nương. Tôi bèn theo lời Phan lập một dàn giải oan trên bến nương hiện lên thật nhưng lúc ẩn lúc vội gọi nhưng nàng vẫn ở giữa dòng sông mà nói với vào -Thiếp cảm ơn, ơn đức của Linh Phi đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng thiếp chẳng về lại được nhân gian nữa. Trong phút chốt cảnh tượng tan biến. Tôi gục đầu thổn thức. Một sự ân hận ghê gớm vào tâm can tôi. Chỉ vì một cơn ghen mù quáng mà tôi đã làm cho vợ chồng, mẹ con phải li biệt mãi mãi. Sai lầm của tôi không thể nào cứu chữa được nữa. Tôi mong mọi người hãy nhìn vào tôi mà rút ra bài học cho chính bản thân mình, rằng đã kết nghĩa trăm năm, muối mặn tình nồng thì vợ chồng hãy thương yêu tin tưởng lẫn nhau có như vậy hạnh phúc mới bền vững mãi mãi được. Kể lại Chuyện người con gái Nam Xương - Mẫu 10 Tôi tên là Trương Sinh, con một nhà hào phú giàu có ở Nam Xương. Từ nhỏ, tôi đã chẳng mặn mà gì với việc học hành nên lúc lớn cũng chỉ sống dựa vào nếp nhà. Nhiều người nói tôi trăng hoa ong bướm nhưng tôi thì không nghĩ vậy, vì từ khi lớn lên đến giờ, tôi chỉ thích có mỗi một người đó là Vũ Thị Thiết người con gái nết na và tư dung tốt đẹp. Tôi thưa với mẹ. Tính ngày tháng tốt, mẹ sửa soạn trăm lạng vàng, sang nhà Vũ Nương xin cưới nàng cho tôi. Tuy là con nhà nghèo nhưng nàng rất “công dung ngôn hạnh”, vì vậy cuộc sống lứa đôi của chúng tôi vô cùng hạnh phúc. Nhưng cuộc sum vầy chẳng được bao lâu, triều đình bắt lính đi đánh giặc, và tôi nằm trong số người phải đi tòng quân. Lúc đó, vợ tôi còn đang mang thai đứa con đầu lòng. Ngày chia tay bịn rịn, lưu luyến đầy nước mắt. Tôi cúi đầu thương cảm nhận lời dạy bảo của mẹ già. Tôi đau đớn nghe những lời li biệt của vợ rồi lên đường ra nơi biên ải. Trong lòng vừa thương nhớ vợ con, vừa lo lắng cho mẹ già. Ở nơi chinh chiến, tôi không nguôi nhớ về ngôi nhà đơn sơ với mẹ già và người vợ trẻ. Mãi rồi cuộc chiến cũng chấm dứt, tôi được trở về quê. Vừa đặt chân đến nhà thì hay tin mẹ già đã mất, tôi đau đớn vô cùng. Cảnh nhà heo hút càng sầu thảm làm sao. Tôi bế con trai tôi - nó tên Đản ra thăm mộ mẹ. Đứa con xa lạ với người cha mới gặp cứ quấy khóc hoài. Tôi cố gắng dỗ con – Nín đi con, đừng khóc. Cha về, bà mất, lòng cha buồn khổ lắm rồi. Đản lại ngây thơ hỏi lại tôi – Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói? Chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít. Tôi ngạc nhiên khi nghe con nói thế, liền gạn hỏi thêm thì thằng bé nói – Trước đây có một người đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả. Nghe lời con trẻ, tôi vừa đau lòng vừa tức giận. Vậy ra vợ tôi là người đàn bà hư hỏng, trong lúc chồng đi chiến trường thì ở nhà lăng loàn với người đàn ông khác. Thế mà khi ở chiến trường nguy hiểm kia tôi lại không ngừng nhớ tới nàng, mong ngày mong đêm để được về đoàn tụ với nàng. Về đến nhà, cơn ghen mù quáng khiến tôi không nhịn được, tôi la um lên cho hả giận. Chẳng màng vợ hết lời thanh minh, hàng xóm hết lòng khuyên giải, tôi đuổi Vũ Nương đi. Biết tôi không tin vào sự thật, nàng đau đớn ôm con lần cuối cùng rồi ra khỏi nhà. Chiều muộn hôm đó, tôi nghe tin nàng đã gieo mình xuống sông Hoàng Giang tự vẫn. Tuy vẫn giận nhưng tôi cũng mang lưới ra để vớt xác nàng nhưng vớt mãi suốt đêm cũng chẳng thấy đâu. Một đêm vắng vẻ, tôi ngồi ôm con bên ngọn đèn mới thắp, lòng buồn rầu nghĩ đến Vũ Nương. Bỗng thằng bé reo lên – Cha Đản lại đến kia kìa! Tôi vội hỏi đâu thì nó chỉ vào cái bóng của tôi trên vách nhà. Tôi chợt hiểu ra mọi chuyện. Nhưng mà trời ơi! Tôi đã làm gì thế này. Chính tôi đã giết vợ mình. Vợ tôi đã chết oan uổng vì sự hồ đồ, đa nghi, cả ghen, ích kỉ,… của chính tôi. Tôi hối hận quá. Nhưng đã muộn mất rồi. Kể lại Chuyện người con gái Nam Xương - Mẫu 11 Tôi tên là Trương Sinh, quê ở Nam Xương. Vợ tôi là Vũ Thị Thiết, một người con gái tính đã thùy mị nết na lại thêm tư dung tốt đẹp. Hai vợ chồng cùng mẹ tôi sống rất vui vẻ, hạnh phúc, hòa thuận bên nhau và đứa con đầu lòng của chúng tôi cũng sắp chào đời. Không may thay, chiến tranh xảy ra ngay khi ấy, binh lửa loạn lạc của cuộc nội chiến kéo dài và tôi bị gọi đi tòng quân. Khi nhận được lệnh, tôi chia tay với mẹ và vợ trong niềm xót xa, bâng khuâng và bồi hồi. Trước khi chia tay, mẹ tôi dặn dò kỹ càng - Con đi ra nơi binh mạc như thế thì phải biết giữ mình cho tốt. Đừng vì một chút công danh, lợi lộc mà để bản thân bị thương. Con phải nhớ như thế thì mẹ mới bớt được phần lo lắng. Tôi vâng lời mẹ dặn dò, nhận chén rượu tiễn biệt từ Vũ Nương. Nàng giãi bày với tôi Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong chàng đeo ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ… Chỉ xin ngày trở về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi. Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao. Rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến cho thiếp băn khoăn, mẹ chồng lo lắng. Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét gửi người ải xa. Trông liễu rủ bãi hoang lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú. Dù tin trông mỏi mòn cũng không có lấy một cánh hồng bay bổng. Nàng vừa dứt lời thì nước mắt tôi ứa ra. Tạm biệt mọi người trong gia đình, tôi lên đường ra trận. Tôi đi được ít hôm thì vợ tôi sinh con. Đó là một bé trai bụ bẫm, trắng trẻo và được Vũ Nương đặt tên là Đản. Chuyện vui chưa kéo dài được bao lâu thì tin dữ lại đến. Mẹ tôi vì quá nhớ và lo lắng cho tôi nơi trận mạc nên đã lâm bệnh nặng và không qua khỏi, mặc dù Vũ Nương đã hết sức thuốc thang, cúng bái. Một năm sau, chiến tranh kết thúc, tôi trở về với quê hương. Cảnh vật chẳng thay đổi là mấy. Khung cảnh vẫn vẹn nguyên như hồi tôi mới từ biệt gia đình ra đi tới nơi trận mạc mà thôi. Vừa về tới nhà thì tôi đã nghe tin là mẹ tôi mất. Tôi đau đớn và buồn bã vô cùng. Và buồn hơn khi không hiểu vì lý do gì mà bé Đản nhất quyết không nhận tôi là cha nó. Nhân cơ hội ra mộ thăm mẹ, tôi dẫn bé Đản theo. Ra tới mộ, mọi cảm xúc của tôi được đẩy lên tới đỉnh điểm, không kìm được nước mắt, tôi òa lên khóc nức nở như một đứa bé. Lúc đó, tôi quay sang gọi bé Đản. Nó tròn xoe mắt hỏi tôi - Ông cũng là cha tôi ư? Cha tôi trước khi chỉ nín thin thít, không nói câu nào. Tôi phải hỏi mãi mới biết hồi tôi đi vắng có một người đàn ông đêm nào cũng đến nhà tôi. Vì tính đa nghi hay ghen nên tôi phi thẳng về nhà và ngay lập tức quát mắng Vũ Nương. Tôi bỏ ngoài tai mọi lời phân trần, giải thích của nàng cũng như những lời biện minh của bà con hàng xóm. Và rồi, tôi đuổi Vũ Nương ra khỏi nhà. Vũ Nương ra bến Hoàng Giang rồi gieo mình xuống đó. May thay được Linh Phi cứu xuống làm cung nữ dưới long cung. Rồi nàng gặp được Phan Lang – người cùng làng với chúng tôi, và nàng gửi Phan lang cầm về một chiếc hoa vàng, tín vật nàng gửi lại cho tôi. Trong khi ấy, ở nhà, tôi mới biết được sự thật là người đàn ông kia chỉ là cái bóng của Vũ Nương mà thôi. Tôi đau đớn và chua xót vô cùng, nhưng lúc ấy hối hận thì đã quá muộn màng. Phan Lang gặp tôi, kể lại đầu đuôi câu chuyện và trao cho tôi chiếc hoa vàng kỷ vật kia. Sáng hôm sau, tôi lập đàn giải oan cho Vũ Nương bên bến sông. Nàng hiện về trong giây lát rồi biến mất. Tôi chìm vào trong thất vọng và tuyệt vọng. Chỉ vì tính đa nghi, hay ghen mà tôi đã làm mất một người vợ tốt vô ngần, tự tay phá vỡ đi cuộc sống vợ chồng hạnh phúc, bình yên, hòa thuận bấy lâu nay. Tôi ân hận lắm! Kể lại Chuyện người con gái Nam Xương - Mẫu 12 Nếu có ai hỏi rằng trong cuộc đời của tôi, điều gì làm tôi hối hận nhất thì tôi sẽ cúi đầu mà trả lời rằng việc tôi hối hận nhất là hiểu nhầm người vợ của tôi và khiến cô ấy phải chết. Tôi là Trương Sinh, sinh ra trong một hoàn cảnh đất nước có chiến tranh tôi phải tòng quân đi lính như biết bao chàng trai khác. Trước khi đi lính mẹ tôi cưới cho tôi một người con gái rất xinh đẹp lại nết na. Đó là người vợ của tôi sau này. Trong khoảng thời gian chưa ra trận tôi và cô ấy đã có với nhau một mầm sống. Tôi ở chiến trận trải qua biết bao nhiêu gian khổ, đã có biết bao nhiêu người ngã xuống. Tôi từng chứng kiến biết bao nhiêu cái chết thương tâm, chết không nhắm mắt. Mỗi lúc như thế nghĩ về gia đình tôi lại có động lực để vượt qua tất cả để trở về với họ. Ngày tôi trở về tôi được tin mẹ tôi đã mất vì quá thương nhớ tôi. Tôi là người con duy nhất mà mẹ tôi có, cha mất sớm mẹ nuôi bằng chính sức lực của mình không có ai giúp đỡ. Mẹ xót tôi nơi chiến trận, nghĩ mà tôi không kìm được nước mắt. Dẫu sao giờ đây ông trời đã bù đắp cho tôi bằng một cậu con trai vô cùng dễ thương, một người vợ ngày đêm chung thủy đợi tôi về. Những tưởng hạnh phúc, thế nhưng đứa bé không gọi tôi là cha, nó không nhận tôi. Nó nói ba nó thường đến lúc khuya. Tôi tức giận lắm, hóa ra vợ tôi không chung thủy như tôi nghĩ. Trong cơn nóng giận tôi đã đánh cô ấy và đuổi ra khỏi nhà. Đêm đến tôi bế đứa con, bỗng nhiên nó chỉ vào cái bóng của tôi trên tường mà nói rằng đó là ba nó. Người tôi như điêu đứng, tôi hiểu ra sự tình, tôi chạy đi tìm vợ mình nhưng không thấy. Rồi nghe tin cô ấy đã tự sát, nhảy xuống sông. Mấy ngày sau tôi nhận được lời nhắn của cô ấy, tôi hối hận vô cùng nhưng đã quá muộn. Tôi chẳng biết làm cách nào liền lập đền giải oan cho cô ấy trên con sông mà cô tự tử. Đó chính là câu chuyện mà cho hết cuộc đời này nó vẫn cứ ám ảnh tôi, một sự ám ảnh tội lỗi. Đóng vai Trương Sinh để kể lại truyện Chuyện người con gái Nam Xương, mẫu số 1 Chuẩn Thời gian qua nhanh như cơn gió thoảng, chỉ mới thoáng chốc đã hơn hai mươi năm trôi qua, thế nhưng, sự việc ấy vẫn cứ như mới xảy ra ngày hôm qua vậy. Đến tận bây giờ, nỗi hối hận vẫn chưa bao giờ nguôi ngoai trong lòng Trương Sinh tôi. Sự ghen tuông mù quáng, sự nghi kị với vợ của mình đã khiến tôi mất đi một người vợ hiền dịu, nết na, khiến cho hạnh phúc gia đình tan vỡ. Gia đình họ Trương tôi vốn chỉ có tôi là con trai độc nhất nên ngay từ nhỏ, tôi đã được cha mẹ vô cùng nuông chiều. Tình cách của tôi đặc biệt không tin tưởng người khác tuyệt đối bao giờ, ngay cả với những người thân trong nhà. Đến tuổi dựng vợ gả chồng, trong làng có nàng Vũ Nương, tính tình hiền dịu hết mức, lại xinh đẹp, nết na, tôi mến dung hạnh của nàng mà nhờ mẹ đem trầu cau cùng trăm lạng vàng sang rước nàng về làm vợ. Tuy là vợ chồng chung chăn chung gối, nhưng tôi cũng không thực tin tưởng Vũ Nương, bởi vậy nên luôn phòng ngừa nàng trong mọi chuyện. Nhưng Vũ Nương quả chẳng phụ lòng tôi và Trương gia luôn xử sự vô cùng khéo léo mọi chuyện, nên lấy nhau mà hai vợ chồng tôi chưa từng bao giờ bất hòa. Thế nhưng, có những sự việc đến thật bất ngờ quá sức với tôi! Từ nhỏ, tôi vốn dựa mình là con nhà hào phú, nên chưa từng ngó qua sách vở, cho rằng chỉ cần có tiền thì có thể làm được mọi điều. Đến lúc triều đình có chiến sự biên ải, tuyển lính sung quân, tôi cũng vẫn nghĩ, mình con nhà hào môn, sẽ không bị bắt đi lính biên ải xa kia. Thế nhưng, tuy tôi con nhà hào phú thật, nhưng vì không có học thức nên trong danh sách bắt đi lính đánh Chiêm Thành, tên tôi ở ngay đầu tiên. Biết không thể tránh khỏi, tôi đành lòng chuẩn bị ra đi. Đến ngày tôi đi, mẹ tôi nuốt nước mắt mà dặn rằng - Nay con phải ra đi vì việc quân việc nước, mẹ biết rằng đây là thời cơ để con tạo dựng nên sự nghiệp, công danh cho mình. Thế nhưng, ngoài chiến trường, binh đao khó biết, con hãy biết giữ mình cẩn thận. Đừng vì tham công danh, lợi ích mà mắc lừa quân địch. Mẹ chẳng mong con về mang được tiếng thơm, chỉ mong sao con trai mẹ trở về trong bình an là được. Con hãy nghe lời mẹ dặn thì mẹ ở nhà mới yên lòng được. Tôi nghe lời mẹ dặn hết sức kính cẩn, quỳ xuống đất, dập đầu mà vâng lời mẹ. Còn Vũ Nương – vợ tôi, nàng buồn rầu rót chén rượu đầy tràn rồi dặn tôi rằng - Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm, vang danh trở về quê cũ, chỉ xin ngày về, chàng mang theo được hai chữ bình yên trở lại, thế là đủ rồi. Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường, rợ man chạy tội, vương sư uổng công; lời tâu công lớn phá giặc đã chầy, kỳ hẹn thay quân hóa muộn, khiến thiếp ôm nỗi quan hoài, mẹ già triền miên lo lắng. Trong mảnh trăng Trường An, nhanh tay đập áo rét, ngắm liễu tàn rủ bóng động nỗi niềm biên ải xa xôi. Giả sử có muôn vàn thư tín, chỉ e không một tin về. Chàng ở nơi xa xôi, còn mình thiếp ôm nỗi quan hoài, thương nhớ! Vũ Nương nói xong mà nước mắt đã chảy tràn, khiến tôi và mọi người không khỏi xúc động. Vợ tôi vẫn luôn hiền dịu như thế, chu đáo như thế, lúc ấy, tôi chỉ mong rằng mấy năm ròng xa cách, nàng hãy giữ trọn một đạo với chồng là được. Lạy mẹ già thêm một lạy, ta vội xách tư trang quay gót, tới chỗ tập hợp binh lính sung quân. Miền biên ải xa xôi, đêm ngày hành quân vất vả. Ba năm ròng rã đánh giặc Chiêm Thành, vào sinh ra tử đã không ít lần, cuối cùng quân giặc ngoan cố cũng đã chịu đầu hàng. Ba năm ròng, cuối cùng tôi cũng được trở về nhà. Thế nhưng, niềm vui ngắn chẳng tày gang. Về tới nhà, tôi nhận được tin rằng, mẹ tôi vì mong ngóng tin con trai nơi biên ải, đã lâm bệnh mà qua đời, còn tôi thì có thêm một đứa con trai tên là Đản. Mẹ mất, trong lòng tôi buồn vô hạn, cũng may còn có đứa con trai này khiến tôi có chút niềm vui trong lòng. Còn vợ tôi, Vũ Nương, nàng vẫn vậy, vẫn luôn ân cần, nhẹ nhàng và chu đáo như thế, mọi việc trong nhà từ khi tôi đi, mẹ mất, nàng một mình quán xuyến tất thảy. Ngày tôi trở về, nàng vui mừng vô cùng, vợ chồng con cái lại được quây quần sum họp hưởng hạnh phúc. Hôm sau, tôi dẫn con trai ra ngoài thăm mộ người mẹ già, thế nhưng, thằng bé nhất định không chịu theo tôi còn gào khóc om sòm. Tôi mới dỗ dành nó rằng - Con nín đi, đừng khóc nữa mà cha buồn lòng! Cha rời xa bà ba năm, nay trở về mà bà đã mất, thật trớ trêu thay! Đứa con tôi mới ngây ngô nhìn tôi rồi hỏi - Ô hay, ông cũng là cha của tôi sao? Ông biết nói thật lạ quá chứ cha tôi trước kia chẳng nói gì cả bao giờ! Ô, sao có chuyện lạ đời, tôi đi lính đã ba năm nay, năm nay mới trở về, mới được gặp con trai, sao nó lại nói đã từng có cha trước kia, việc này là như thế nào? Tôi mới gặng hỏi đứa con - Cha trước kia là ai? Sao lại đến mà không nói gì? Câu trả lời của đứa con làm tôi lặng người đi - Trước đây, ông chưa về, đêm nào cha tôi cũng đến ngồi cùng mẹ tôi, mẹ làm gì cũng làm theo, mẹ ngồi cũng ngồi, đi cũng đi, nhưng chẳng bao giờ bế tôi cả! Một người đàn ông đêm nào cũng đến ư? Trời ơi, một người phụ nữ có chồng ở nhà chồng một mình vậy mà còn dẫn đàn ông đến ở qua đêm ư? Phải chăng Vũ Nương kia đã làm gì có lỗi với Trương Sinh tôi, phải chăng nàng ta đã phản bội tôi mà thất tiết với ai rồi? Ba năm chờ chồng mà lại qua lại với người đàn ông khác, sao còn xứng với tôi đây? Về tới nhà, tôi mắng vợ một trận thật lớn để hả giận. Tôi mắng nàng ta là người phụ nữ hư thân mất nết, không biết xấu hổ, chồng đi chinh chiến ba năm lại chẳng biết giữ tròn đạo làm vợ. Vũ Nương lúc đầu ngạc nhiên, nàng trân mắt nhìn tôi đăm đăm, rồi nàng khóc mà rằng - Thiếp vốn con nhà nghèo, may mắn được gả cho chàng, vào Trương gia cùng chàng lập nên ơn nghĩa vợ chồng. Chia xa khi vừa lập gia thất được nửa năm, xa chàng, thật lòng thiếp vô cùng buồn tủi! Ba năm chàng rời xa, tưởng lòng đã lạnh, chưa một lần thiếp dám nghĩ tới người nào khác, ngõ liễu tường hoa chưa bao giờ ngó ngàng. Thiếp đã giữ trọn đạo vợ chồng với chàng, mong rằng chàng hãy soi tỏ, đừng vội tin lời người ngoài mà nghi oan cho thiếp! Thế nhưng, những lời nói ấy của nàng khi ấy, tôi chẳng tin lấy nửa lời. Trong lòng tôi chỉ còn sự giận dữ vì bị phản bội, chỉ một mực nghi kị nàng đã làm việc có lỗi với tôi. Tôi chưa từng kể với nàng, tôi nghe con trai nói, mặc dù nàng gặng hỏi, tôi cũng chưa từng để tâm những lời nói thanh mình của nàng. Nếu khi ấy, tôi không ghen tuông mù quáng mà biết lắng nghe Vũ Nương, lắng nghe những lời giải thích của nàng, chịu nghe những lời khuyên ngăn của hàng xóm thì tôi đã chẳng phải chịu cảnh chăn lìa gối chiếc với nàng bao năm qua. Lúc ấy, tôi chỉ một mực cho rằng nàng thất tiết, mỗi ngày đều dùng lời tệ bạc mà mắng nhiếc, đánh đuổi nàng đi. Vào ngày thứ bảy sau chuyện đó, Vũ Nương vừa khóc vừa nói với tôi rằng - Thiếp nương tựa vào chàng vì niềm vui gia đình, vì con trai của chúng ta, chưa bao giờ có ý nghĩ rời xa gia đình này. Đâu thể ngờ, chàng rời đi ba năm, trở về lại vì một lời của kẻ khác mà nghi oan cho rằng thiếp ở nhà không giữ trọn đạo vợ chồng. Nay sự đã đến nước này, thiếp cũng không thể trần tình, thanh minh với chàng được nữa. Thiếp đâu có thể còn dám ngước nhìn lên núi Vọng Phu cao vời vợi kia nữa! Thế nhưng, những lời ấy đâu lọt vào tai tôi nửa chữ, tôi chỉ một mực chì chiết, nghi kị nàng. Nói xong, nàng đứng dậy, tắm rửa thay quần áo rồi ra đi. Lúc đó, tôi cứ tưởng, nàng thẹn với chồng con, với làng xóm nên ra đi, ai ngờ đâu, nàng lại ra sông mà gieo mình xuống, chỉ để chứng tỏ lòng trung trinh của mình. Nghĩ lại đến đây, tôi thật vô cùng ân hận, chỉ vì sự nghi ngờ vô cớ của mình mà đã đẩy người con gái dịu dàng, xinh đẹp như vợ tôi vào chốn đường cùng. Lúc nghe tin nàng gieo mình xuống sông, tôi tuy còn giận ở trong lòng nhưng nghĩ lại ơn nghĩa vợ chồng, tìm người vớt thây nàng, thế nhưng chẳng thấy đâu cả. Lòng ôm sầu hận, tôi chẳng thể nào ngủ được. Một buổi tối, khi đang ngồi cùng con trai bên chiếc đèn khuya hiu hắt thì bất chợt con trai tôi reo lên rằng - Cha Đản lại đến rồi! Tôi bất ngờ ngẩng đầu nhìn tứ phía, nhưng chẳng thấy tăm hơi một người nào, tưởng con chơi trò nói đùa, mới gặng hỏi con ở đâu. Nó mới nhanh chân chạy lại bức vách rồi trỏ vào cái bóng của tôi in trên vách mà bảo - Đây này! Tôi như chết lặng đi, giờ thì tôi đã hiểu mọi cơ sự rồi. Chắc hẳn vợ của tôi đã nói với con rằng cái bóng trên vách là cha của nó. Tôi đã thật ngu ngốc khi không nói rõ ràng với vợ của mình, để giờ đây, dù ân hận, tôi cũng chẳng thể làm gì được nữa. Vũ Nương của tôi đã chẳng thể trở về bên cạnh tôi được nữa rồi! Ngày tháng cứ trôi qua chậm rãi, nỗi ân hận vì đánh mất người vợ hiền cứ day dứt trong lòng tôi. Cho tới một hôm, có người tự xưng là Phan Lang, tới tìm gặp tôi. Tôi lạ lùng bởi tôi không hề biết người này. Thế nhưng, người tên Phan Lang ấy đem đến cho tôi một tin còn đáng giật mình hơn nữa vợ tôi còn sống. Ban đầu, tôi không tin, chỉ coi đó là trò đùa của anh ta. Thế nhưng khi anh ta đưa chiếc thoa vàng rồi kể câu chuyện lưu lạc dưới thủy cung của vua Nam Hải, gặp lại vợ tôi, cùng nàng hàn huyên rồi được nhờ là đưa cho tôi chiếc thoa này, bấy giờ tôi mới tin là sự thật. Phan Lang còn dặn rằng, Vũ Nương muốn nhờ tôi lập một đàn tràng giải oan ở bến Hoàng Giang – nơi vợ tôi gieo mình xuống thì nàng sẽ trở về. Tôi vô cùng kinh sợ, bán tính bán nghi, thế nhưng, nếu Vũ Nương – vợ tôi được trở về thì thế nào, tôi cũng bằng lòng. Vậy là tôi bèn theo lời nàng, lập một đàn tràng ở bến Hoàng Giang ba ngày ba đêm ròng rã, vậy nhưng vẫn chưa thấy Vũ Nương xuất hiện. Đến ngày thứ tư, lúc tôi tưởng chừng hi vọng đã dần cạn kiệt thì quả nhiên thấy một chiếc kiệu hoa rực rỡ xuất hiện giữa dòng nước mênh mông. Theo sau kiệu lớn là hơn năm mươi chiếc xưa, với cờ tàn tán lọng, cả một khúc sông bỗng rực rỡ, chói lóa, huyền ảo. Rồi từ trong kiệu hoa, Vũ Nương bước ra, mặc trên mình bộ y phục lấp lánh, tôi hoa mắt chờ đợi, khi xưa nàng đã vô cùng xinh đẹp, khoác lên bộ y phục này thì càng xinh đẹp hơn gấp bội phần. Thế nhưng, khi tôi vội vàng cất tiếng gọi thì nàng không từ từ tiến lại bờ mà chỉ đứng giữa dòng mà nói vọng vào với tôi - Đa tạ chàng đã giúp thiếp thực hiện nguyện ước của mình. Nhưng nay mây tan gió tạnh, thiếp đã thề nguyện ở lại cùng sống chết để cảm tạ ơn nghĩa của Đức Linh Phi. Thiếp chẳng thể trở về nhân gian sum họp cùng chàng được nữa! Mong chàng hãy nuôi nấng, chăm sóc bé Đản nên người, vậy là thiếp mãn nguyện rồi. Thiếp đa tạ chàng! Nói xong, nàng vén kiệu mà bước vào, cả kiệu hoa và đoàn xe cứ thoắt ẩn thoắt hiện rồi loang loáng mờ dần, biến mất vào trong hư không. Tôi vội vã gọi tên nàng, thế nhưng, chẳng có ai đáp lại lời tôi nữa, Vũ Nương đã thực sự biến mất rồi. Tôi thất thểu bước về nhà, trong lòng ôm đầy nỗi ân hận. Chính tôi là người đã đẩy nàng vào bước đường cùng, giờ đây, chẳng có gì có thể cứu vãn được sự việc nữa. Mọi việc thực sự đã kết thúc rồi. Giờ đây, hơn hai mươi năm sau khi sự việc đã xảy ra, tôi vẫn ôm trong mình nỗi ân hận vô vàn. Dù sau này, tôi đã dần sửa đổi tâm tình mong có thể vơi bớt nỗi lòng, thế nhưng, hình bóng của Vũ Nương vẫn luôn luôn hiện ra trong tâm trí tôi. Có lúc tôi mong được trở lại là Trương Sinh của hai mươi năm trước để có thể nói một lời xin lỗi với người vợ thân yêu của mình. Thế nhưng, mọi chuyện đã lỡ, chẳng có gì có thể thay đổi được nữa. Con trai tôi đã lớn khôn, thành người, chuẩn bị thành gia lập thất, tôi đã nuôi dạy nó bằng cả tình yêu với Vũ Nương. Hi vọng nàng ở dưới chốn thủy cung cũng luôn dõi theo cha con tôi mỗi ngày và vui mừng vì điều đó. 2. Đóng vai Trương Sinh để kể lại truyện Chuyện người con gái Nam Xương, mẫu số 2 Tôi sinh ra trong một gia đình khá giả ở Nam Xương. Vừa tới tuổi đôi mươi thì được cha mẹ cưới vợ cho. Vợ tôi là Vũ Thị Thiết, dung mạo đoan trang, tính nết hiền lành, chăm chỉ. Chúng tôi sống với nhau hòa thuận, hạnh phúc và cùng háo hức chờ đợi đứa con đầu lòng sắp ra đời. Bất ngờ, chiến tranh bùng nổ, loạn lạc xảy ra khắp chốn. Nhận được lệnh sung vào lính, tôi đành chia tay mẹ già, vợ trẻ để lên đường ra trận. Lúc tiễn đưa, mẹ già nắm chặt tay tôi, ngậm ngùi khuyên - Con ráng giữ mình nơi mũi tên hòn đạn, gặp khó nên lui, lường sức mà tiến, đừng nên tham miếng mồi thơm để lỡ mắc vào cạm bẫy. Quan cao tước lớn nhường cho người ta. Có như thế, mẹ ở nhà mới khỏi lo lắng vì con được. Tôi quỳ xuống vâng lời mẹ dạy. Vợ tôi rót chén rượu đầy nâng bằng hai tay đưa cho tôi và nói rằng - Chàng ra đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong chàng được đeo ân phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ. Chỉ xin ngày về mang theo hai chữ bình yên, thế là đủ. Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao. Rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến cho thiếp băn khoăn, mẹ hiền lo lắng. Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú. Dù thư tín có nghìn hàng, cũng sợ không có cánh hồng bay bổng. Nàng nói đến đây, mọi người đều ứa nước mắt. Rồi tiệc tiễn vừa tàn, tôi dứt áo lên đường. Mọi vật xung quanh vẫn như cũ, nhưng lòng tôi đã bùi ngùi bởi cảnh sinh li và mối tình ngàn dặm quan san cách đi được một tuần thì vợ tôi sinh con trai. Nàng đặt tên cho con là Đản. Có đứa bé, cửa nhà cũng bớt phần hiu quạnh. Ngày qua tháng lại, thoắt đã nửa năm. Mẹ già nhớ thương, lo lắng cho tôi đến nỗi lâm bệnh nặng. Biết không sống được, bà nói với vợ tôi rằng - Ngắn dài có số, tươi héo bởi trời. Mẹ không phải là không muốn đợi chồng con trở về. Song lòng tham vô cùng mà vận trời khó tránh. Nước hết, chuông rền, số cùng khí kiệt. Một tấm thân tàn, nguy trong sớm tối, việc sống chết không khỏi phiền đến con. Chồng con nơi xa xôi, chưa biết sống chết thế nào, không thể về đền ơn được, sau này, trời xét lòng thành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn. Xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ. Dứt lời, mẹ tôi nhắm mắt. Vợ tôi khóc lóc xót thương và lo liệu chôn cất cho mẹ tôi được mồ yên mả đẹp. Một năm sau, giặc giã đã bị dẹp yên, tôi khăn gói trở về quê cũ. Biết tin mẹ đã qua đời, tôi đau đớn lắm! Đón đứa con trai từ tay vợ, tôi bế con ra mộ mẹ để thắp nhang. Ra đến đồng, nó quấy khóc mãi, tôi dỗ dành sao cũng không chịu nín. Tôi bảo con - Nín đi con, đừng khóc nữa! Cha về, bà đã mất, lòng cha buồn khổ lắm rồi! Bất chợt, con tôi bi bô nói - Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít. Tôi ngạc nhiên gặng hỏi thì con tôi kể rằng đêm nào cũng có một người đàn ông đến nhà. Mẹ nó ngồi cũng ngồi, mẹ nó đi cũng đi theo, nhưng không bao giờ bế nó cả. Tính tôi vốn đa nghi. Nghe con nói vậy thì cơn ghen chợt bùng lên dữ dội. Tôi vội về nhà, la hét om sòm cho hả giận. Vợ tôi ôm mặt khóc mà rằng - Thiếp vốn con nhà nghèo khó, may được nương tựa nhà giàu. Vợ chồng sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm, giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn, từng đã nguôi lòng, ngõ liễu đường hoa, chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết như lời chàng nói. Dám xin chàng cho thiếp được bày tỏ, để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng nghi oan cho thiếp! Nhưng mặc cho nàng thanh minh thế nào tôi cũng không tin. Nàng hỏi tôi chuyện kia do ai nói thì tôi giấu không cho nàng biết. Tôi mắng nhiếc nàng thậm tệ rồi đuổi ra khỏi nhà, dù hàng xóm hết lời bênh vực. Cuối cùng, nàng ngậm ngùi vừa nói vừa khóc - Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng vì có cái thú vui nghi gia nghi thất. Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân con én lìa đàn, nước thẳm buồm xa, đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa? Đoạn nàng tắm gội chay sạch, ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời mà than rằng - Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám! Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, xin vào nước làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ. Nói xong, nàng gieo mình xuống sông mà chết. Tuy giận là nàng thất tiết nhưng thấy nàng tự vẫn, tôi cũng động lòng thương, cố vớt thây nàng để chôn nhưng tìm mãi không được. Một đêm, tôi ngồi buồn bã trước ngọn đèn khuya. Chợt đứa con trai bật thốt - Cha Đản lại đến kia kìa! rồi chỉ tay vào bóng tôi in trên vách - Đây này! Tôi chợt hiểu ra tất cả và ân hận vô cùng! Thì ra trong thời gian tôi vắng nhà, đêm đêm, vợ tôi thường đùa với con, trỏ bóng mình mà bảo là cha Đản. Tôi thấu hiểu nỗi oan tày trời của vợ và trách mình sao quá nhẫn tâm, nhưng mọi chuyện trót đã qua rồi! Ở bến sông cạnh làng, có người giữ chức quan đầu mục tên là Phan Lang, một đêm chiêm bao thấy người con gái áo xanh xin tha mạng. Sáng ra, có người biếu ông một con rùa mai xanh. Nhớ lại giấc mơ, ông liền thả con rùa ấy xuống sông. Mấy năm sau, giặc Minh xâm phạm cửa ải Chi Lăng, dân chúng hoảng sợ lên thuyền chạy trốn ra ngoài biển, không may gặp bão lớn, chết đuối cả. Thây Phan Lang dạt vào một động rùa ngoài hải đảo. Có người đàn bà là Linh Phi trông thấy nói rằng - Đây là vị ân nhân đã cứu sống ta thuở xưa! Rồi bà ta lấy thuốc thần cho uống. Lát sau, Phan Lang sống lại. Linh Phi truyền mở tiệc thết đãi. Trong đám người dự tiệc, có một mĩ nhân chỉ trang điểm sơ qua, nét mặt rất giống Vũ Nương. Phan Lang bèn hỏi chuyện và được nàng cho biết mình là Vũ Thị Thiết, người cùng làng, vì oan khuất mà phải gieo mình xuống sông Hoàng Giang tự vẫn và được các tiên nữ dưới thủy cung đưa về đây cùng chung sống với Linh Phi. Trước khi Phan Lang được đưa ra khỏi thủy cung, Vũ Nương có nhờ ông ta nói với tôi rằng sẽ có ngày nàng tìm về. Nếu tôi còn nhớ tình xưa nghĩa cũ thì hãy lập một đàn giải oan ở bến sông. Về đến làng, Phan Lang tìm gặp tôi, kể lại mọi chuyện, nhưng tôi không tin. Lúc ông ta đưa ra kỉ vật làm tin là chiếc hoa vàng của vợ tôi thì tôi sợ hãi nhận rằng đây đúng là vật mà nàng mang theo lúc ra đi. Sáng hôm sau, tôi làm theo đúng lời nàng dặn, lập đàn giải oan suốt ba ngày đêm ở bến sông. Quả nhiên, tôi nhìn thấy Vũ Nương ngồi trên chiếc kiệu hoa ở giữa dòng, theo sau là năm mươi cỗ xe trang trí cờ tán, võng lộng rực rỡ, lúc ẩn lúc hiện. Tôi vội gọi thật lớn nhưng nàng vẫn ở giữa sông mà nói vọng vào - Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết không bỏ. Đa tạ tình chàng, nhưng thiếp không thể trở về nhân gian được nữa! Trong phút chốc, tất cả tan biến. Tôi gục đầu thổn thức. Một sự ân hận ghê gớm vò xé lòng tôi. Chỉ vì một cơn ghen mù quáng mà tôi đã làm cho vợ chồng, mẹ con lâm vào cảnh sinh li tử biệt. Sai lầm của tôi không phương cứu chữa. Tôi chỉ còn mong ước mọi người hãy nhìn vào thảm cảnh của gia đình tôi mà rút ra bài học Đã là vợ chồng thì hãy thương yêu, tôn trọng, tin tưởng lẫn nhau. Có như vậy, hạnh phúc mới được bền lâu. Bài văn Đóng vai Trương Sinh để kể lại truyện Chuyện người con gái Nam Xương hay nhất 3. Đóng vai Trương Sinh để kể lại truyện Chuyện người con gái Nam Xương, mẫu số 3 Đời người không ai là không phạm sai lầm cả, quan trọng hơn là biết sửa sai. Thế nhưng với tôi khi mắc sai lầm đã không cách nào cứu vớt được, chỉ còn lại sự đau buồn, ân hận, xót thương về những điều đã xảy ra vài năm trước đây...Tôi - Trương Sinh sinh và lớn lên trên mảnh đất Nam Xương. Cha tôi chẳng may mất sớm, nhà chỉ còn lại một mình mẹ và tôi. Hai mẹ con nương tựa vào nhau mà sống. Mẹ luôn muốn tôi lấy vợ sớm để bà có cháu bồng bế, thêm người cho vui cửa vui nhà. Đến tuổi cập kê mẹ đã tìm người mai mối rồi cưới cho tôi một cô gái vô cùng xinh đẹp, nổi tiếng đảm đang ở trong vùng tên là Vũ Thị Thiết. Tôi mừng lắm bởi gia cảnh nhà mình cũng bình thường, mẹ góa con côi, tôi được cái ngoan ngoãn chịu khó làm ăn nhưng cũng không phải con quan chức, địa chủ gì vậy mà nàng lại chịu lấy tôi. Tôi rất yêu vợ, cũng vì yêu nhiều nên đôi khi tôi hay ghen tuông bóng gió. Đó là một thói xấu nhưng vì quá yêu nàng nên tôi không kiềm chế được cảm xúc nóng nảy mối khi có người đàn ông nào muốn tiếp cận hay đến gần Vũ nương. Gia đình nhỏ bé của tôi nay lại thêm được Vũ nương đảm đang chăm sóc, vun vén mà tôi có cảm giác thật hạnh phúc, yên bình. Chắc đó là khoảng thời gian đẹp nhất cuộc đời tôi. Mẹ tôi đã già yếu, bà thương con dâu như chính con ruột của mình, nàng cũng hết mực hiếu thảo với bà. Chúng tôi sống với nhau hòa thuận, hạnh phúc và cùng háo hức chờ đợi đứa con đầu lòng sắp ra đời. Bất ngờ, chiến tranh bùng nổ, loạn lạc xảy ra khắp chốn. Nhận được lệnh sung vào lính, tôi đành chia tay mẹ già, vợ trẻ để lên đường ra trận. Lúc tiễn đưa, mẹ già nắm chặt tay tôi, ngậm ngùi khuyên - Con ráng giữ mình nơi mũi tên hòn đạn, gặp khó nên lui, lường sức mà tiến, đừng nên tham miếng mồi thơm để lỡ mắc vào cạm bẫy. Quan cao tước lớn nhường cho người ta. Có như thế, mẹ ở nhà mới khỏi lo lắng vì con được. Tôi quỳ xuống vâng lời mẹ Vũ nương, nàng rót chén rượu đầy nâng bằng hai tay đưa cho tôi và nói rằng - Chàng ra đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong chàng được đeo ân phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ. Chỉ xin ngày về mang theo hai chữ bình yên, thế là đủ. Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao. Rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến cho thiếp băn khoăn, mẹ hiền lo lắng. Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú. Dù thư tín có nghìn hàng, cũng sợ không có cánh hồng bay bổng. Nhìn hai người phụ nữ quan trọng nhất đời mình như thế, tôi xúc động ngôn nguôi. Trong lòng nảy sinh cảm giác thật ấm áp và an tâm khi nhà cửa, gia thất đã có đôi bàn tay khéo léo của thê tử chăm sóc. Ngày đi lính , lòng nặng trĩu quay lưng về phía ngôi nhà của chúng tôi, tôi bước đi thật nhanh, không ngoảnh đầu lại. Tôi đi được một tuần thì vợ tôi sinh con trai. Nàng đặt tên cho con là Đản. Có đứa bé, cửa nhà cũng bớt phần hiu quạnh. Ngày qua tháng lại, thoắt đã nửa năm. Mẹ già nhớ thương, lo lắng cho tôi đến nỗi lâm bệnh nặng. Vũ nương chẳng ngại khó nhọc, nàng luôn luôn kề cận chăm sóc mẹ tôi cho đến khi bà từ giã cõi trần. Từ đó căn nhà nhỏ vắng đi một bóng người, chỉ còn hai mẹ con nàng sống nương tựa vào nhau. Đản không biết mặt cha nó là ai, bởi vì tôi đã đi lính ròng rã mấy năm trời xa cách. Ngày giặc bị đánh tan là lúc tôi khăn gói trở về quê nhà. Vừa tới cổng nhà nghe người hàng xóm thông báo tin dữ mẹ tôi đã qua đời hơn nửa năm trước tôi đau khổ tột độ, vội vàng vứt chiếc túi cói đựng đồ dùng cá nhân xuống nhà, rồi vội vàng ra thăm mộ mẹ. Nhưng tôi chưa biết mẹ được chôn cất chỗ nào nên dắt thằng bé con trai tôi đi theo, bởi lúc đó vợ tôi đang bận đi chợ mua đồ ăn về đãi tôi thắng giặc trở về. Trong lúc tôi cõng con trai đi thăm mộ mẹ, trên đường đi nó cứ khóc suốt không chịu nhận tôi là ba nó. Nó còn đấm thùm thụp vào lưng tôi bảo "Thả tôi ra ông không phải là ba tôi. Ba tôi đêm nào cũng tới".Người xưa có câu "Đi hỏi già về nhà hỏi trẻ" nên nghe con trai nói thế tôi bực lắm. Tôi tin rằng vợ tôi đã sinh hư trong lúc vắng chồng quạnh hiu, nên mềm yếu với tên nào đó rồi. Tôi vội vàng thắp hương, lạy mẹ ba lạy rồi tức tốc về nhà gặp vợ hỏi rõ đầu đuôi. Vừa đi lòng tôi vừa nóng như lửa đốt, thực sự rất tức giận. Khi tôi bước vào nhà, vợ tôi đang loay hoay dưới bếp với rất nhiều món ngon, nàng bước ra trên mặt còn dính một vệt nhọ nồi, trông nàng lúc ấy rất xinh vô cùng duyên dáng và đáng yêu. Nhưng máu ghen trong người tôi đang lên cao ngút trời tôi không thể nào mà nguôi giận ngay được. Tôi quắc mắt hỏi vợ Con trai nói rằng tối nào ba nó cũng đến thăm, đấy là thằng nào? Thằng nào hả?. Cơn giận bùng lên như ngọn lửa, thiêu đốt hoàn toàn lí trí của tôi. Tôi nóng nảy mắng mỏ ,quát tháo Vũ nương, mặc cho nàng có khóc lóc như thế nào tôi cũng không màng đến. Khi cơn giận lên đến đỉnh điểm, tôi đã thẳng thừng buông lời lạnh lùng đuổi nàng đi ra khỏi nhà. Mấy người hàng xóm đến can ngăn nhưng tôi còn quát cả họ, đuổi họ về. Vũ nương vẫn khóc, từng giọt nước mắt thấm ướt vạt áo nàng. Lòng tôi chợt thấy có cái gì đó nhói lên nhưng rồi ngọn lửa tức giận đã lấn át hết mọi thứ. Tôi mù quáng đuổi nàng đi, đóng cánh cổng nhà lại. Vũ nương bị đuổi ra khỏi nhà, tôi cứ nghĩ nàng ấy sẽ đi về nhà mẹ đẻ hoặc đến nhà bà con nào đó xin tá túc. Nhưng không vợ tôi tắm rửa sạch sẽ, rồi thay xiêm y ra thành Hoàng Gia ngửa mặt than trời xin ông trời nếu như ông có mắt thì hãy chứng giám cho sự trinh tiết đức hạnh của nàng. Rồi nàng tôi gieo mình xuống sông tự tử. Nàng mất rồi. Tôi giật mình. Thật sự là nàng đã ra đi rồi ... Tại sao lại thế, lòng tôi đau đớn nhìn xuống dòng nước lặng. Tôi không nghĩ nàng lại làm quyết liệt tới như thế. Tôi đâm ra oán giận mình đã quá mê muội nếu nàng không trong sạch thì sao lại phản ứng mạnh tới như thế. Tính ghen tuông đã làm tôi gián tiếp dẫn đến cái chết của Vũ nương. Người con gái đáng thương ấy, tôi thương nàng nhưng lại làm nàng tổn thương đến mất cả tính mạng chỉ vì nàng muốn minh chứng cho lời giải thích của nàng với tôi là sự thật. Đêm đến, trong căn nhà lạnh lẽo. Tôi nằm mãi không ngủ được con trai thì kêu khóc đòi mẹ, tôi dỗ mãi nó mới nằm im được một lúc. Tôi cũng không ngủ được nên dậy thắp ngọn đèn lên cho sáng sủa. Khi nhìn thấy bóng của tôi trên vách tường thằng bé Đản con trai tôi mừng rỡ khoe tôi "cha con đó". Câu nói của nó làm tôi giật mình thức tỉnh, hóa ra tôi đã nghi oan cho vợ đẩy nàng tới cái chết thê ảng kí ức tái hiện lại vô cùng đau thương. Mọi thứ diễn ra quá nhanh, tôi cư xử quá lạnh lùng và tàn nhẫn với Vũ nương. Nàng chỉ mong tôi tin nàng. Thế nhưng tôi đã không làm được điều đó. Giờ tôi có ân hận , đau buồn đến đâu cũng chẳng thể làm nàng quay về với gia đình này nữa. Con tôi đã mất mẹ tại vì người cha vô tâm của nó... Gần nhà tôi có một người làm nghề đánh cá tên Phan Lang một lần ông áy nằm mơ thấy một cô gái xin tha mạng, khi tỉnh dậy nhặt được một con rùa rất to nên ông ây nhớ tới giấc mơ bèn thả con rùa về biển. Một hôm người này đi biển bị lật thuyền được một cô gái cứu giúp, hỏi ra mới biết cô gái này chính là vợ tôi. Vợ tôi vì oan khuất mà tìm tới cái chết làm lay động thủy cung nên được cứu vớt. Nàng có nhờ Phan Lang nhắn với tôi rằng Chàng hãy lập đàn giải oan cho thiếp, thiếp sẽ hiện về. Ban đầu tôi bán tính bán nghi không tin hết lời người đàn ông này nói nhưng khi nhận được chiếc hoa vàng tôi đã tin. Đây thật sự là vật dụng của Vũ nương. Tôi bèn theo lời Phan lập một dàn giải oan trên bến nương hiện lên thật nhưng lúc ẩn lúc vội gọi nhưng nàng vẫn ở giữa dòng sông mà nói với vào -Thiếp cảm ơn, ơn đức của Linh Phi đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng thiếp chẳng về lại được nhân gian nữa. Trong phút chốt cảnh tượng tan biến. Tôi gục đầu thổn thức. Một sự ân hận ghê gớm vào tâm can tôi. Chỉ vì một cơn ghen mù quáng mà tôi đã làm cho vợ chồng, mẹ con phải li biệt mãi mãi. Sai lầm của tôi không thể nào cứu chữa được nữa. Tôi mong mọi người hãy nhìn vào tôi mà rút ra bài học cho chính bản thân mình, rằng đã kết nghĩa trăm năm, muối mặn tình nồng thì vợ chồng hãy thương yêu tin tưởng lẫn nhau có như vậy hạnh phúc mới bền vững mãi mãi được. Hiện tại, các em học sinh lớp 9 đang phải viết bài viết số 3. Để hoàn thành bài viết số 3 lớp 9 hay và ý nghĩa, các em nên tham khảo các bài văn mẫu cùng chủ đề này. Bài tập làm văn số 3 lớp 9 có 4 chủ đề Đề 1 Hãy kể một lần tình cờ xem trộm nhật kí của bạn, Kể lại buổi gặp gỡ người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Kể về một kỉ niệm đáng nhớ giữa mình và thầy, cô giáo cũ, Kể về một cuộc gặp gỡ với các chú bộ đội nhân ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam 22-12. đã sưu tầm các bài văn mẫu tham khảo cho bài viết số 3 này. Mời các em học sinh tham khảo để có ý tưởng viết bài hay hơn. Chúc các em học tốt. Đóng vai Trương Sinh để kể lại truyện Chuyện người con gái Nam Xương lớp 9 4. Đóng vai Trương Sinh để kể lại truyện Chuyện người con gái Nam Xương, mẫu số 4 Bóng nàng ẩn hiện trên sông, nói lời tạ từ tôi và con, rồi nàng biến mất.... Tôi tha thiết gọi tên nàng để níu kéo nhưng nàng đã vĩnh viễn biến mất, vĩnh viễn rời xa cha con tôi. Tất cả cũng chỉ tại tính ghen tuông mù quáng, mà giờ tôi đã mất người vợ thảo hiền, nết na. Tôi vốn quê ở Nam Xương, nhà giàu có nhưng tôi lại ham chơi hơn ham học, nên vừa ngoài hai mươi, mẹ tôi đã kén vợ cho tôi. Nàng tên Vũ Nương người con gái thùy mị nết na, lại thêm phần tư dung tốt đẹp. Tôi hài lòng về vợ mình lắm, nhưng tính tôi lại hay ghen, sợ vợ mình xinh đẹp, thùy mị như vậy sẽ nhiều người theo đuổi nên tôi vẫn hết sức phòng ngừa. Biết tôi tính như vậy nên Vũ Nương cũng hết sức giữ gìn, bởi vậy gia đình tôi luôn được êm đềm, yên ấm. Bởi vậy, tôi càng yêu nàng hơn. Nhưng cuộc sống gia đình hạnh phúc chẳng được bao lâu, chiến tranh xảy ra, tôi đứng đầu trong danh sách đi lính. Ngày đưa tiễn tôi lên đường cả mẹ và nàng đều khóc hết nước mắt, mong tôi bình an trở về. Những năm tháng ở chiến trường tôi nhớ gia đình tha thiết, nhớ mẹ già ở nhà mong ngóng, nhờ người vợ hiền thục. Tôi chỉ mong chiến tranh nhanh nhanh kết thúc để tôi được trở về bên gia đình. Ba năm chiến tranh qua đi, tôi về nhà lòng đầy hứng khởi, mong nhớ. Nhưng ngày tôi về lại ấp xuống biết bao tai họa. Mẹ tôi vì thương nhớ tôi quá nhiều mà sinh bệnh nên đã mất. Tôi bế đứa con nhỏ hơn một tuổi ra thăm mộ mẹ, nhưng bé Đản khóc lớn, không chịu đi cùng tôi, tôi dỗ dành Nín đi con, đừng khóc! lòng cha đã buồn khổ lắm rồi! Con tôi nói Ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói chứ không giống như cha trước kia chỉ nín thin thít. Tôi ngạc nhiên, sững sờ, tim bỗng nhói đau, máu ghen trong người nổi lên, tôi hỏi dồn thằng bé về người đàn ông đó. Thằng bé hồn nhiên đáp lại - Đêm nào cũng có một người đến, mẹ ngồi người đó cũng ngồi, mẹ đi người đó cũng đi, nhưng người đó không bao giờ bế Đản cả. Đến giờ tôi không còn đủ bình tĩnh nữa, vợ tôi thảo hiền, nết na chỉ là cái vỏ bề ngoài. Tôi đi lính đã lập tức thất tiết với tôi. Tôi nổi giận đùng đùng, về nhà đánh đuổi vợ tôi đi. Nàng tha thiết van xin - Thiếp vốn con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu. Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa từng bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói. Dám xin bày tỏ để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp. Nhưng những lời nàng đối với tối lúc đó chỉ là gian dối, ngụy biện, tôi gạt phát đi và dùng những lời lẽ đay nghiến, trì triết để đuổi nàng đi. Giá lúc ấy tôi bình tĩnh hơn, nói rõ nguyên do cho nàng giải thích thì gia đình tôi đã không phải chịu cảnh li tán như ngày hôm nay. Uất ức vì không được giãi bày, Vũ Nương đã tắm gội chay sạch và tìm đến bến sông Hoàng Giang để tự vẫn nhằm minh chứng cho tấm lòng trong sạch của mình. Lúc ấy tôi vẫn chưa biết rõ sự tình nhưng biết vợ tự vẫn cũng hết sức đau lòng, tôi ra bến sông để vớt xác nhằm chôn cất nàng chu đáo nhưng không tài nào tìm thấy, tôi và con đành trở về nhà. Cuộc sống một mình gà trống nuôi con quả chẳng dễ dàng, đêm ấy tôi thắp đèn bỗng bé Đản reo lớn - Cha Đản lại đến kìa. Chính là người cha vẫn đến cùng mẹ đó. Bấy giờ tôi mới biết mình đã nghi oan cho vợ. Trong những ngày xa tôi, vì thương nhớ và cũng muốn bù đắp cho con, để bé Đản được nhận tình yêu đủ đầy của cha và mẹ mà nàng đã trỏ bóng mình bảo cha Đản. Tôi lại ghen tuông mù quáng, nghe lời đứa trẻ ngây thơ, không tìm hiểu rõ nguồn cơn nên đã gây nên cái chết oan nghiệt cho nàng. Tôi ân hận lắm. Thời gian cứ thế thấm thoát trôi qua. Bỗng một hôm Phan Lang người cùng làng tôi mang chiếc hoa mà ngày xưa vợ vẫn hay dùng đến và nói lời Vũ Nương nhắn gửi, bảo tôi lập đàn giải oan trên sông, đốt cây đăng chiếu xuống nước để Vũ Nương trở về. Tôi nghe xong bán tín bán nghi, nhưng nhìn chiếc hoa đúng là của vợ tôi thật. Tôi đành lập một đàn giải oan trên sông, Vũ Nương trở về thật, nhìn thấy tôi nàng đã nói - Thiếp cảm tạ tấm lòng chàng, ơn đức Linh Phi cứu mạng thiếp đã hứa sẽ ở đó cùng Linh Phi, sông chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng thiếp chẳng về nhân gian được nữa. Tôi còn chưa kịp nói lời xin lỗi nàng, Vũ Nương đã biến mất... Nàng trở về chẳng hề trách cứ, oán thán tôi một lời. Điều ấy càng làm tôi đau đớn, day dứt hơn. Chỉ một phút nóng nảy, chỉ vì tính ghen tuông tôi đã cướp đi tình yêu thương của mẹ mà bé Đản vốn được hưởng, và tôi đã đánh mất hạnh phúc của chính mình, mất người vợ thảo hiền, dịu dàng. Cả đời này tôi sẽ sống trong day dứt, đau khổ, và mãi mãi không quên nàng... Bài văn mẫu số 1 Cách dẫn vào đề theo kết thúc câu chuyện Tôi nhớ mãi khi bóng dàng làng mờ nhạt trên sông, rồi từ từ biến mất. Tôi tha thiết gọi tên nàng nhưng không có hồi đáp, nàng cứ vậy mà biến mất, vĩnh viễn rời xa cha con tôi. Tất cả cũng chỉ vì tôi ghen tuông mù quáng, mà giờ tôi đã mất người vợ thảo hiền. Tôi vốn quê ở Nam Xương, gia cảnh giàu có nhưng vì ham chơi mà bỏ bê học hành, nên vừa ngoài hai mươi, mẹ tôi đã kén vợ cho tôi. Nàng tên Vũ Nương, người con gái thùy mị nết na, lại thêm phần tư dung tốt đẹp. Tôi vô cùng hài lòng về vợ của mình, nhưng tính tôi lại hay ghen, sợ vợ mình xinh đẹp như vậy sẽ có nhiều người theo đuổi nên tôi vẫn hết sức phòng ngừa. Biết tôi tính như vậy nên nàng hết sức giữ gìn, luôn chăm lo suy nghĩ cho gia đình. Tôi cảm thấy thật mĩ mãn và càng ngày càng yêu nàng hơn. Nhưng cuộc sống vợ chồng hạnh phúc chẳng được bao lâu thì chiến tranh xảy ra, tôi được gọi trong danh sách đi lính. Lúc này mới hối hận làm sao, nếu khi xưa tôi chăm chỉ học hành thì có thể bây giờ tôi chẳng phải xa mẹ già, vợ bụng mang dạ chửa. Ngày đưa tiễn tôi lên đường cả mẹ và nàng đều khóc hết nước mắt, không cầu tôi dành công danh, chỉ cần có thể mạnh khỏe, bình an trở về. Những ngày tháng ở chiến trường tôi nhớ gia đình tha thiết, nhớ mẹ già ở nhà mong ngóng, nhờ người vợ hiền thục. Tôi chỉ mong chiến tranh nhanh chóng kết thúc để được trở về đoàn tụ bên gia đình. Thời gian nhanh chóng qua đi, chiến tranh kết thúc, tôi về nhà lòng đầy hứng khởi, mong nhớ. Nhưng ngày tôi về thì mới hay tin, mẹ vì thương nhớ tôi quá nhiều mà sinh bệnh nên đã mất. Tôi bế đứa con nhỏ hơn một tuổi ra thăm mộ mẹ, nhưng bé Đản khóc lớn, không chịu đi cùng tôi, tôi dỗ dành - Nín đi con, đừng khóc! Bà mất lòng cha đã buồn khổ lắm rồi! Con tôi ngạc nhiên nói - Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói chứ không giống như cha trước kia chỉ nín thin thít. Tôi ngạc nhiên, sững sờ, tim bỗng nhói đau, máu ghen trong người nổi lên, tôi hỏi dồn thằng bé về người đàn ông đó. Thằng bé lại hồn nhiên đáp lại - Đêm nào cũng có một người đến, mẹ ngồi người đó cũng ngồi, mẹ đi người đó cũng đi, nhưng người đó không bao giờ bế Đản cả. Đến giờ tôi không còn đủ bình tĩnh nữa, tôi đi lính lâu ngày, vợ tôi thảo hiền, nết na chỉ là cái vỏ bề ngoài. Tôi đi lính đã lập tức thất tiết với tôi. Tôi nổi giận đùng đùng, về nhà đánh đuổi vợ tôi đi. Nàng tha thiết van xin - Thiếp vốn con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu. Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa từng bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói. Dám xin bày tỏ để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp. Nhưng những lời nàng đối với tối lúc đó chỉ là gian dối, ngụy biện, tôi gạt phát đi và dùng những lời lẽ đay nghiến, trì triết để đuổi nàng đi. Giá lúc ấy tôi bình tĩnh hơn, nói rõ nguyên do cho nàng giải thích thì gia đình tôi đã không phải chịu cảnh li tán như ngày hôm nay. Uất ức vì không được giãi bày, Vũ Nương đã tắm gội chay sạch và tìm đến bến sông Hoàng Giang để tự vẫn nhằm minh chứng cho tấm lòng trong sạch của mình. Lúc ấy tôi vẫn chưa biết rõ sự tình nhưng biết vợ tự vẫn cũng hết sức đau lòng, tôi ra bến sông để vớt xác nhằm chôn cất nàng chu đáo nhưng không tài nào tìm thấy, tôi và con đành trở về nhà. Cuộc sống một mình gà trống nuôi con quả chẳng dễ dàng, đêm ấy tôi thắp đèn bỗng bé Đản reo lớn - Cha Đản lại đến kìa. Chính là người cha vẫn đến cùng mẹ đó. Bấy giờ tôi mới biết mình đã nghi oan cho vợ. Trong những ngày xa tôi, vì thương nhớ và cũng muốn bù đắp cho con, để bé Đản được nhận tình yêu đủ đầy của cha và mẹ mà nàng đã trỏ bóng mình bảo cha Đản. Tôi lại ghen tuông mù quáng, nghe lời đứa trẻ ngây thơ, không tìm hiểu rõ nguồn cơn nên đã gây nên cái chết oan nghiệt cho nàng. Tôi ân hận lắm. Thời gian cứ thế thấm thoát trôi qua. Bỗng một hôm Phan Lang người cùng làng tôi mang chiếc hoa mà ngày xưa vợ vẫn hay dùng đến và nói lời Vũ Nương nhắn gửi, bảo tôi lập đàn giải oan trên sông, đốt cây đăng chiếu xuống nước để Vũ Nương trở về. Tôi nghe xong bán tín bán nghi, nhưng nhìn chiếc hoa đúng là của vợ tôi thật. Tôi đành lập một đàn giải oan trên sông, Vũ Nương trở về thật, nhìn thấy tôi nàng đã nói - Thiếp cảm tạ tấm lòng chàng, ơn đức Linh Phi cứu mạng thiếp đã hứa sẽ ở đó cùng Linh Phi, sông chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng thiếp chẳng về nhân gian được nữa. Tôi còn chưa kịp nói lời xin lỗi nàng, Vũ Nương đã biến mất. Khi thấy nàng trở về mà không một lời trách cứ, oán thán càng làm tôi đau đớn, day dứt hơn. Chỉ một phút nóng nảy, chỉ vì tính ghen tuông tôi đã cướp đi tình yêu thương của mẹ mà bé Đản vốn được hưởng, và tôi đã đánh mất hạnh phúc của chính mình, mất người vợ thảo hiền, dịu dàng. Cả đời này tôi sẽ sống trong day dứt, đau khổ, và mãi mãi không quên nàng… Bài văn mẫu số 2 - Sử dụng ngôi kể thứ nhất trong vai Trương Sinh kể lại chuyện Tôi tên là Trương Sinh, con một nhà hào phú giàu có ở Nam Xương. Từ nhỏ, tôi đã chẳng mặn mà gì với việc học hành nên lúc lớn cũng chỉ sống dựa vào nếp nhà. Nhiều người nói tôi trăng hoa ong bướm nhưng tôi thì không nghĩ vậy, vì từ khi lớn lên đến giờ, tôi chỉ thích có mỗi một người đó là Vũ Thị Thiết người con gái nết na và tư dung tốt đẹp. Tôi thưa với mẹ. Tính ngày tháng tốt, mẹ sửa soạn trăm lạng vàng, sang nhà Vũ Nương xin cưới nàng cho tôi. Tuy là con nhà nghèo nhưng nàng rất “công dung ngôn hạnh”, vì vậy cuộc sống lứa đôi của chúng tôi vô cùng hạnh phúc. Nhưng cuộc sum vầy chẳng được bao lâu, triều đình bắt lính đi đánh giặc, và tôi nằm trong số người phải đi tòng quân. Lúc đó, vợ tôi còn đang mang thai đứa con đầu lòng. Ngày chia tay bịn rịn, lưu luyến đầy nước mắt. Tôi cúi đầu thương cảm nhận lời dạy bảo của mẹ già. Tôi đau đớn nghe những lời li biệt của vợ rồi lên đường ra nơi biên ải. Trong lòng vừa thương nhớ vợ con, vừa lo lắng cho mẹ già. Ở nơi chinh chiến, tôi không nguôi nhớ về ngôi nhà đơn sơ với mẹ già và người vợ trẻ. Mãi rồi cuộc chiến cũng chấm dứt, tôi được trở về quê. Vừa đặt chân đến nhà thì hay tin mẹ già đã mất, tôi đau đớn vô cùng. Cảnh nhà heo hút càng sầu thảm làm sao. Tôi bế con trai tôi - nó tên Đản ra thăm mộ mẹ. Đứa con xa lạ với người cha mới gặp cứ quấy khóc hoài. Tôi cố gắng dỗ con – Nín đi con, đừng khóc. Cha về, bà mất, lòng cha buồn khổ lắm rồi. Đản lại ngây thơ hỏi lại tôi – Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói? Chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít. Tôi ngạc nhiên khi nghe con nói thế, liền gạn hỏi thêm thì thằng bé nói – Trước đây có một người đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả. Nghe lời con trẻ, tôi vừa đau lòng vừa tức giận. Vậy ra vợ tôi là người đàn bà hư hỏng, trong lúc chồng đi chiến trường thì ở nhà lăng loàn với người đàn ông khác. Thế mà khi ở chiến trường nguy hiểm kia tôi lại không ngừng nhớ tới nàng, mong ngày mong đêm để được về đoàn tụ với nàng. Về đến nhà, cơn ghen mù quáng khiến tôi không nhịn được, tôi la um lên cho hả giận. Chẳng màng vợ hết lời thanh minh, hàng xóm hết lòng khuyên giải, tôi đuổi Vũ Nương đi. Biết tôi không tin vào sự thật, nàng đau đớn ôm con lần cuối cùng rồi ra khỏi nhà. Chiều muộn hôm đó, tôi nghe tin nàng đã gieo mình xuống sông Hoàng Giang tự vẫn. Tuy vẫn giận nhưng tôi cũng mang lưới ra để vớt xác nàng nhưng vớt mãi suốt đêm cũng chẳng thấy đâu. Một đêm vắng vẻ, tôi ngồi ôm con bên ngọn đèn mới thắp, lòng buồn rầu nghĩ đến Vũ Nương. Bỗng thằng bé reo lên – Cha Đản lại đến kia kìa! Tôi vội hỏi đâu thì nó chỉ vào cái bóng của tôi trên vách nhà. Tôi chợt hiểu ra mọi chuyện. Nhưng mà trời ơi! Tôi đã làm gì thế này. Chính tôi đã giết vợ mình. Vợ tôi đã chết oan uổng vì sự hồ đồ, đa nghi, cả ghen, ích kỉ,… của chính tôi. Tôi hối hận quá. Nhưng đã muộn mất rồi. Bài văn mẫu số 3 - Cách đóng vai Trương Sinh kể lại câu chuyện theo tuần tự Đã bao năm trôi qua, nhưng tôi vẫn không thể nào quên được những gì mình đã làm gây ra khiến vợ tôi khiến nàng chọn con đường bức tử. Một nỗi ân hận ghê gớm luôn vò xé nỗi lòng mỗi khi đêm về. Tôi muốn kể cho các bạn nghe câu chuyện sai lầm này, để ai đó đừng bước vào vết xe đổ của tôi. Tôi sinh ra trong một gia đình khá giả ở Nam Xương. Lúc bấy giờ, trong cùng làng có một người con gái đẹp tuy nhà nghèo có nhưng đẹp cả người đẹp nết, nàng tên là Vũ Thị Thiết, mọi người xung quanh thường gọi là Vũ Nương. Mến vì dung hạnh đoan trang, nên tôi đã xin mẹ trăm lạng vàng cưới nàng về làm vợ. Chúng tôi sống với nhau hòa thuận, hạnh phúc và cùng háo hức chờ đợi đứa con đầu lòng. Bất ngờ, chiến tranh xảy ra, triều đình bắt lính đi tòng quân. Do xưa nay chằng màng học hành nên tôi có tên trong danh sách. Không còn cách nào khác, tôi đành phải chia tay mẹ già, vợ trẻ để lên đường ra trận. Vào ngày tòng quân, mẹ già nắm chặt tay tôi, ngậm ngùi khuyên - Nay con phải tạm ra tòng quân, xa lìa dưới gối. Tuy là hội công danh từ xưa ít gặp, nhưng trong chỗ binh cách, phải lấy việc giữ mình làm trọng, biết gặp nạn thì lui, lượng sức mà đánh, đừng nên tham miếng mồi thơm, để lỡ mắc vào lưới cá. Quan cao tước lớn nhường để người ta. Có như thế thì mẹ ở nhà mới đỡ lo lắng vì con được. Tôi quỳ xuống vâng lời mẹ dạy. Vợ tôi rót chén rượu đầy nâng bằng hai tay đưa cho tôi và nói rằng – Lang quân đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi. Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường, rợ man chạy tội, vương sư uổng công; lời tâu công lớn phá giặc đã chầy, kỳ hẹn thay quân hóa muộn, khiến thiếp ôm nỗi quan hoài, mẹ già triền miên lo lắng. Trông mảnh trăng Trường An , nhanh tay đập áo rét, ngắm liễu tàn rủ bóng động nỗi niềm biên ải xa xôi. Giả sử có muôn hàng thư tín, chỉ e không một tin về. Nàng nói đến đấy, mọi người đều ứa hai hàng lệ. Rồi tiệc tiễn vừa tàn, tôi dứt áo lên đường. Mọi vật xung quanh vẫn như cũ, nhưng lòng tôi đã bùi ngùi bởi cảnh sinh li và mối tình ngàn dặm quan san cách trở. Ở chiến trường hơn một năm trời, may mắn được trở về đoàn tụ với gia đình. Nhưng sét đánh ngang tai, mẹ tôi vì quá nhớ thương con mà ốm đau biền biệt, cuối cùng cụ đã qua đời. Tôi đau xót biết bao, định bế con trai - bé Đản mới hơn một tuổi ra thăm mộ. Nhưng con từ lúc đẻ chưa gặp mặt, xa lạ nằng nặc không chịu đi. Dọc đường, bé Đản khóc, tôi dỗ “Nín đi con, bà mất, lòng cha buồn khổ lắm rồi”. Bé Đản liền nói tôi không phải là cha nó, cha nó là người trước đây đêm nào cũng đến bên mẹ. Tôi choáng váng. Đất dưới chân tôi như sụp xuống. Tôi cứ bần thần nghĩ ngợi, Vũ Nương là một người vợ ngoan hiền, đức hạnh, chẳng lẽ hơn một năm xa cách, nàng lại trở nên hư hỏng như vậy sao? Tôi bỗng thấy căm giận Vũ Nương. Ghen tuông mù quáng khiến tôi bùng lên, không có cách gì dập tắt được. Về đến nhà, tôi la mắng om sòm cho hả giận. Vũ Nương bàng hoàng sửng sốt. Nàng vừa khóc vừa thanh minh “Thiếp vốn con nhà nghèo khó, được nương tựa nhà giàu, vẫn lấy sự nết na thuỳ mị, công dung ngôn hạnh làm đầu. Vợ chồng sum họp chưa được bao lâu, chia xa chỉ vì lửa binh chứ không vì lí do gì khác. Trong ba năm cách biệt, thiếp một mực giữ gìn tiết hạnh, không tô son điểm phấn, không bén gót chốn chơi bời hoa liễu, một mực nhớ thương và chung thuỷ với chàng. Xin chàng hãy tin thiếp, đừng nghi oan cho thiếp mà tội nghiệp…”. Nhưng bao nhiêu lời nói chân thật cũng không làm dịu được mối nghi ngờ trong tôi. Hàng xóm thương nàng tần tạo, chăm sóc mẹ chồng con thơ chu đáo, ma chay cho mẹ làm tương tự thân sinh của chính mình nên ra sức bênh vực và biện bạch cho nàng. Nhưng tôi không nghe ai hết. Lúc đó tôi chẳng quan tâm lời ai nói, tôi mắng nhiếc không tiếc lời rồi đánh đuổi nàng đi. Cảm thấy đã không thể thuyết phục được tôi, Vũ Nương bất đắc dĩ nói trong đau đớn, xót xa, cay đắng rằng – Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng, vì có cái thú vui nghi gia nghi thất, có sự yên ổn được tựa bóng cây cao. Đâu ngờ ân tình tựa lá, gièm báng nên non. Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết bông hoa gãy cuống, kêu xuân cái én lìa màn, nước thẳm buồm xa, đâu còn thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa. Tôi đã không biết, nàng lại đi tắm gội sạch sẽ, ra bến Hoàng Giang than khóc, thề nguyền và gieo mình xuống sông tự vẫn. Về phần tôi, mối nghi ngờ không chỉ làm hại Vũ Nương mà còn làm khổ tôi, dằn vặt tôi không phút nào yên. Tuy giận Vũ Nương thất tiết nhưng khi nàng tự vẫn, tôi cảm thấy lòng đau nhói. Tôi cố vớt thây nàng để chôn nhưng tìm mãi không được. Một đêm, tôi ngồi buồn bã trước ngọn đèn khuya. Chợt đứa con trại bật thốt “Cha Đản lại đến kia kìa!”, rồi chỉ tay vào bóng tôi in trên vách “Đây này!”. Tôi ngỡ ngàng và hiểu ra tất cả. Thì ra, ngày thường lúc tôi vắng nhà, Vũ Nương hay trỏ bóng mình trên tường đùa con và báo đó là cha Đản. Tôi thấu hiểu nỗi oan động trời của vợ và trách mình sao quá nhẫn tâm, nhưng mọi chuyện trót đã qua rồi, không làm sao thay đổi được nữa… Câu chuyện của tôi, những sai lầm của tôi là có thật. Tôi đã đánh mất hạnh phúc của chính mình. Kể ra câu chuyện đau lòng này, tôi chỉ muốn mọi người đừng xử sự nông nổi, cả giận mất khôn như tôi. Hãy tin yêu con người, thực lòng yêu thương người thân để gia đình không rơi vào những bi kịch đau đớn. Bài văn mẫu số 4 - Đóng vai Trương Sinh kể lại Chuyện người Con gái Nam Xương Tôi tên là Trương Sinh hôm nay tôi xin kể lại câu chuyện của gia đình tôi để các bạn có thể lấy chuyện của tôi ra làm tấm gương mà biết cách giữ gìn hạnh phúc gia đình mình đừng để tới khi gia đình tan nát mới cảm thấy hối hận như tôi. Năm tôi tròn 20 tuổi mẹ tôi có nhờ người mai mối và đem sính lễ hỏi cưới cho tôi một người con gái cùng làng nàng tên là Vũ Thị Thiết. Nàng năm ấy vừa tròn đôi chín, dáng người đoan trang hiền thục, mặt mũi ưa nhìn, tính tình đức hạnh… Khi mẹ hỏi cưới nàng cho tôi tôi mừng lắm vì lấy được người vợ vừa xinh đẹp lại hiền ngoan. Chúng tôi sống với nhau hạnh phúc được một thời gian ngắn, khi Vũ Nương vợ tôi mang thai đứa con đầu lòng thì cũng là lúc tôi phải theo lời kêu gọi của triều đình lên đường đi đánh trận. Ngày chia tay tôi nàng chỉ sụt sùi khóc động viên tôi giữ gìn sức khỏe trở về bình yên để gia đình được đoàn tụ bên nhau. Cha được gần con và vợ được gần chồng. Chuyện xảy ra khi tôi bắt đầu đến tuổi cưới vợ, tôi có để ý một cô gái xinh đẹp, thùy mị và nết na tên là Vũ Thị Thiết. Thấy nàng vừa xinh đẹp, vừa hiền lành, tôi đã xin mẹ tôi một trăm lạng để cưới nàng về. Tôi đã không trân trọng nàng từ khi tôi dùng tiền để hỏi cưới cô ấy mà không hề quan tâm xem cô ấy có yêu mình hay không. Nhưng vợ tôi quả là một người phụ nữ vẹn toàn. Cưới nàng về, tôi và mẹ được chăm sóc chu đáo, cơm nước, nhà cửa lúc nào cũng tinh tươm. Ấy vậy mà tôi chẳng những không biết hạnh phúc với hiện tại mà còn đi ghen tuông với vợ những chuyện vụn vặt cỏn con, tôi không muốn một người đàn ông nào bén mảng đến bên vợ mình. Thế rồi cũng vài năm trôi qua, Vũ nương và tôi đón tin vui đầu tiên. Đó là gia đình sắp có thêm một thành viên mới, tôi sung sướng lắm! Nhưng ai ngờ đâu, chiến tranh lại đột ngột ập đến, tôi bắt buộc phải đi lính, để lại mẹ và vợ ở nhà. Trước lúc chia tay, vợ tôi có nói với tôi rằng “Chàng ra đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong chàng được đeo ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ. Chỉ xin ngày về mang theo hai chữ bình yên, thế là đủ.” Nghe được những lời từ vợ, tôi cảm thấy an lòng. Ở nơi chinh chiến, tôi không nguôi nhớ về ngôi nhà đơn sơ với mẹ già và người vợ trẻ. Mãi rồi cuộc chiến cũng chấm dứt, tôi được trở về quê. Vừa đặt chân đến nhà thì hay tin mẹ già đã mất, tôi vô cùng đau xót, tiếc thương. Đứa con trai – tên Đản – lúc ấy đã biết nói. Cảnh nhà heo hút, sầu thảm. Tôi bế con ra thăm mộ mẹ. Đứa con chưa bén hơi cha cứ quấy khóc hoài. Tôi cố gắng dỗ con – Nín đi con, đừng khóc. Cha về, bà mất, lòng cha buồn khổ lắm rồi. Đản ngây thơ hỏi lại tôi – Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói? Chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít. Tôi vô cùng ngạc nhiên khi nghe con nói thế, liền gạn hỏi thằng bé, đứa con nói – Trước đây có một người đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả. Nghe lời con trẻ, tôi vừa đau lòng vừa tức giận. Vậy ra vợ tôi là người đàn bà hư hỏng, trong lúc chồng đi chiến trường thì ở nhà lăng loàn với người đàn ông khác. Thế mà, ở nơi bom rơi đạn lạc, tôi đã quên cả mình để không ngừng nhớ tới nàng, mong ngày mong đêm để được về đoàn tụ với nàng. Một người đàn ông đêm nào cũng đến ư? Trời ơi, một người phụ nữ có chồng ở nhà chồng một mình vậy mà còn dẫn đàn ông đến ở qua đêm ư? Phải chăng Vũ Nương kia đã làm gì có lỗi với Trương Sinh tôi, phải chăng nàng ta đã phản bội tôi mà thất tiết với ai rồi? Ba năm chờ chồng mà lại qua lại với người đàn ông khác, sao còn xứng với tôi đây? Về tới nhà, tôi mắng vợ một trận thật lớn để hả giận. Tôi mắng nàng ta là người phụ nữ hư thân mất nết, không biết xấu hổ, chồng đi chinh chiến ba năm lại chẳng biết giữ trọn đạo làm vợ. Vũ Nương lúc đầu ngạc nhiên, nàng trân mắt nhìn tôi đăm đăm, rồi nàng khóc mà rằng - Thiếp vốn con nhà nghèo, may mắn được gả cho chàng, vào Trương gia cùng chàng lập nên ơn nghĩa vợ chồng. Chia xa khi vừa lập gia thất được nửa năm, xa chàng, thật lòng thiếp vô cùng buồn tủi! Ba năm chàng rời xa, tưởng lòng đã lạnh, chưa một lần thiếp dám nghĩ tới người nào khác, ngõ liễu tường hoa chưa bao giờ ngó ngàng. Thiếp đã giữ trọn đạo vợ chồng với chàng, mong rằng chàng hãy soi tỏ, đừng vội tin lời người ngoài mà nghi oan cho thiếp! Nhưng những lời nàng đối với tối lúc đó chỉ là gian dối, ngụy biện, tôi gạt phát đi và dùng những lời lẽ đay nghiến, trì triết để đuổi nàng đi. Giá lúc ấy tôi bình tĩnh hơn, nói rõ nguyên do cho nàng giải thích thì gia đình tôi đã không phải chịu cảnh li tán như ngày hôm nay. Uất ức vì không được giãi bày, Vũ Nương đã tắm gội chay sạch và tìm đến bến sông Hoàng Giang để tự vẫn nhằm minh chứng cho tấm lòng trong sạch của mình. Lúc ấy tôi vẫn chưa biết rõ sự tình nhưng biết vợ tự vẫn cũng hết sức đau lòng, tôi ra bến sông để vớt xác nhằm chôn cất nàng chu đáo nhưng không tài nào tìm thấy, tôi và con đành trở về nhà. Một đêm, tôi ngồi buồn bã trước ngọn đèn khuya. Chợt đứa con trai bật thốt “Cha Đản lại đến kia kìa!”, rồi chỉ tay vào bóng tôi in trên vách “Đây này!”. Tôi ngỡ ngàng và hiểu ra tất cả. Thì ra, ngày thường lúc tôi vắng nhà, Vũ Nương hay trỏ bóng mình trên tường đùa con và báo đó là cha Đản. Tôi thấu hiểu nỗi oan động trời của vợ và trách mình sao quá nhẫn tâm, nhưng mọi chuyện trót đã qua rồi, không làm sao thay đổi được nữa… Câu chuyện của tôi, những sai lầm của tôi là có thật. Tôi đã đánh mất hạnh phúc của chính mình. Kể ra câu chuyện đau lòng này, tôi chỉ muốn mọi người đừng xử sự nông nổi, cả giận mất khôn như tôi. Hãy tin yêu con người, thực lòng yêu thương người thân để gia đình không rơi vào những bi kịch đau đớn. cũng giúp giải đáp những vấn đề sau đây Đóng vai Trương Sinh kể lại câu chuyện và bày tỏ niềm an hận ngắn nhất Đóng vai Trương Sinh kể lại Chuyện người con gái Nam Xương và bày tỏ niềm an hận Đóng vai Trương Sinh kể lại Chuyện người con gái Nam Xương với kết thúc mới Đóng vai Trương Sinh kể lại Chuyện người con gái Nam Xương có sự dụng miêu tả nói tâm Đóng vai Vũ Nương kể lại Chuyện người con gái Nam Xương Văn 9 đóng vai Trương Sinh kể lại câu chuyện hay nhất Thấy lời Trương Sinh kể lại nỗi oan của vợ Đóng vai Trương Sinh kể lại nỗi an hận của mình See more articles in the category Học tập Ngày đăng 26/03/2014, 1741 Tôi tên là Vũ Nương, quê ở Nam Xương. Mọi người trong làng yêu mến thường khen tôi là nết na, thuỳ mị, xinh đẹp. Họ cầu mong cho tôi sẽ lấy được một người chồng xứng đáng và được hưởng hạnh phúc. Tôi đã gặp và thành vợ chàng Trương. Chàng rất mực yêu […] suy nghĩ về đời sống tình cảm gia đình trong chiến tranh qua truyện ngắn chiếc lược ngà, Csuy nghĩ của em về đức tính tự tin, hien tai la nguyen khi cua quoc gia, soạn lòng yêu nước, Van mau bai rung xa nu, ta ve mua xuan, bai van chung jminh cau tuc ngu that bai la me thanh conh, phan tich doan tholop lop may cao cung nho nhatrang giang cua huy can, giải thích câu tuc ngữ có chí thì nên, Bai văn ta canh mua hè Tôi tên là Vũ Nương, quê ở Nam Xương. Mọi người trong làng yêu mến thường khen tôi là nết na, thuỳ mị, xinh đẹp. Họ cầu mong cho tôi sẽ lấy được một người chồng xứng đáng và được hưởng hạnh phúc. Tôi đã gặp và thành vợ chàng Trương. Chàng rất mực yêu thương tôi, nhưng lại cũng rất đa nghi. Biết vậy, tôi cố gắng từ lời ăn tiếng nói cho đến hành động đều giữ đúng khuôn phép nên gia đình luôn được êm sống của tôi đang êm ềm trôi qua thì chiến tranh xảy ra, chồng tôi phải ghi tên tòng quân. Buổi tiễn chồng ra biên ải, lòng tôi trĩu nặng lo âu, phiền muộn. Nghĩ chàng phải đi vào nơi gió cát nghìn trùng xa cách, đói rét, bệnh tật, việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường, lòng tôi thương chàng vô hạn. Tôi không mong chàng lập công để được ấn phong hầu mà chỉ mong chàng bình an trở về là tôi đã thoả nguyện. Giờ phút chia tay đã hết. Chàng dứt áo ra đi, tôi thẫn thờ dõi theo bóng chàng, mắt nhoà lệ, lòng tái tê chua tháng khắc khoải trôi qua. Trong lòng tôi, mùa xuân tươi vui bướm lượn đầy vườn ; hay mùa đông giá băng ảm đạm, mây che kín núi cũng chỉ là một, bởi nỗi nhớ chàng luôn đằng đẵng, thường trực trong lòng. Đến kì sinh nở, tôi sinh được một bé trai và đặt tên cháu là Đản. Nhưng mẹ chồng tôi, vì nhớ thương con mà ốm đau mòn mỏi. Tôi đã hết lòng thuốc thang, động viên nhưng vì bệnh tình trầm trọng, cụ đã qua đời. Cảm động trước tình mẫu tử thiêng liêng mẹ dành cho chồng tôi, xót thương mẹ vô hạn, tôiđã lo ma chay chu tất cho bao nhiêu chờ đợi mỏi mòn, nhớ thương khôn xiết, cuối cùng Trương Sinh đã trở về. Tôi vô cùng sung sướng và hạnh phúc. Nhưng cuộc đời, có ai mà đoán trước được số phận. Chàng về tới nhà, biết mẹ đã qua đời liền bế con đi viếng mộ mẹ. Lúc trở về, chàng bỗng dưng nổi giận la mắng om sòm. Chàng cho rằng tôi đã phản bội chàng, không giữ tình yêu chung thuỷ với chàng. Tôi bàng hoàng sửng sốt. Nướcmắt tôi ứa ra. Tôi vừa khóc thổn thức vừa giải thích "Thiếp vốn con nhà nghèo khó, được nương tựa nhà giàu, vẫn lấy sự nết na thuỳ mị, công dung ngôn hạnh làm đầu. Vợ chồng sum họp chưa được baolâu, chia xa chỉ vì lửa binh chứ không vì lí do gì khác. . Sinh đã trở về. Tôi vô cùng sung sướng và hạnh phúc. Nhưng cuộc đời, có ai mà đoán trước được số phận. Chàng về tới nhà, biết mẹ đã qua đời liền bế con đi viếng mộ mẹ. Lúc trở về, chàng bỗng dưng. mực yêu thương tôi, nhưng lại cũng rất đa nghi. Biết vậy, tôi cố gắng từ lời ăn tiếng nói cho đến hành động đều giữ đúng khuôn phép nên gia đình luôn được êm ấm. Cuộc sống của tôi đang êm ềm. mỏi. Tôi đã hết lòng thuốc thang, động viên nhưng vì bệnh tình trầm trọng, cụ đã qua đời. Cảm động trước tình mẫu tử thiêng liêng mẹ dành cho chồng tôi, xót thương mẹ vô hạn, tôi đã lo ma chay - Xem thêm -Xem thêm Em hãy đóng vai Vũ Nương kể lại cuộc đời mình, có sử dụng yếu tố miêu tả - văn mẫu, Em hãy đóng vai Vũ Nương kể lại cuộc đời mình, có sử dụng yếu tố miêu tả - văn mẫu,

hóa thân thành vũ nương kể lại câu chuyện